Bản nhạc vàng duy nhất được lưu hành sau giải phóng

Bản nhạc vàng duy nhất được lưu hành sau giải phóng

Thứ 5, 27/12/2012 | 23:57
0
Sau ngày miền Nam giải phóng, hầu như tất cả các bản “nhạc vàng” được sáng tác ở Sài Gòn trước đó đều bị cấm lưu hành. Chỉ duy nhất có một bài hát viết về tình yêu nam nữ được phép lưu hành, đó là bài “Hoa sứ nhà nàng”.

Tác giả của bài hát là một người tật nguyền, xuất thân từ vùng biển Gò Công (tỉnh Tiền Giang), tên là Hoàng Phương. Sau này Hoàng Phương tiếp tục làm sôi động đời sống âm nhạc miền Nam với dòng nhạc mang tên quê hương anh – “nhạc Gò Công”

Ở Sài Gòn trước ngày giải phóng có nhiều trào lưu âm nhạc: nhạc tiền chiến, nhạc phản chiến, nhạc kích động, nhạc bình dân (còn gọi nhạc “sến”, một dạng của nhạc đồng quê)... Thể loại nào cũng có một vài bài hát tiêu biểu, đặc trưng của nó. “Hoa sứ nhà nàng” là một trong những đại diện tiêu biểu của dòng nhạc bình dân.

Xã hội - Bản nhạc vàng duy nhất được lưu hành sau giải phóng

Bìa đĩa nhạc Hoa sứ nhà nàng


Một “tuyệt tác” cho tuổi mới vào yêu

Vào khoảng năm 1968, có một bản nhạc trữ tình được ra đời, tác giả viết lên một chuyện tình dang dở, và những chuyện chia xa thì thường bao giờ cũng buồn nhưng đẹp đến vô cùng. Bài hát được viết theo thể điệu Bolero, với hợp âm chính bằng cung Rê thứ, lời bài hát rất gần gũi với hầu hết thanh niên nam nữ thời bấy giờ, dễ ca, dễ nhớ.

Những hợp âm của bản nhạc đơn giản mà bất cứ ai biết chơi đàn guitar chút chút cũng có thể ôm đàn chuyển đổi nhịp nhàng.

Bản nhạc như có một sức sống mãnh liệt, nó lan tỏa rất nhanh, từ thị thành đến thôn quê, từ những sinh viên, học sinh đến những thanh niên nam, nữ ở ruộng vườn chân chất đều có thể ca và chơi đàn một cách đam mê, nhuần nhuyễn.

Bài hát nổi tiếng đến nỗi mà thời ấy, những bạn bè, những người yêu mến anh tác giả bài hát – nhạc sĩ Hoàng Phương - gọi anh là Hoa Sứ. Anh tên là Hoàng, Nguyễn Kim Hoàng, sinh năm 1943, tại Gò Công.

Ngay từ khi còn nhỏ, anh là một chú bé khôi ngô, cũng như bao đứa trẻ khác, anh được sự yêu thương của gia đình, được sự trìu mến của bà con, lớn lên anh theo học ở trường Trương Định (nay vẫn là trường Trương Định, thị xã Gò Công).

Như các bậc cha mẹ thương con trên cõi đời này, đấng sinh thành ra anh mong cho cậu con trai Nguyễn Kim Hoàng được thành danh, có một tương lai tươi sáng, được nhiều người biết đến.

Sự kỳ vọng của gia đình đã dần thành sự thật, như một định mệnh buồn, như một lời nguyền…
Người của công chúng như đã có từ trong máu anh, anh say mê nhạc hơn những bài toán, những con số khô khốc, những định lý đã có từ đời nảo đời nào.

Thời ấy, đàn Violon là một thứ cực kỳ xa xỉ, nó dành cho những người chơi nhạc có tầm cỡ, và người nghe tiếng đàn Violon cũng phải có một tâm hồn phiêu diêu, bay bổng..

Một lần của một đêm mùa thu, trên con đường từ trường về nhà của buổi học thêm, anh đã nghe tiếng đàn Violon thoát ra từ cửa sổ trên tầng hai của ngôi nhà bên cạnh đường, anh đứng lại, tiếng nhạc réo rắc, du dương, khi trầm khi bổng, dưới ánh trăng thu, anh thấy không gian như rộng hơn, đường về nhà như sáng hơn và những bài toán vừa học xong ban nãy cũng bổng bay xa. Anh dành dụm tiền để mua đàn violon và tự học nhưng tự học violon là một điều không dễ, anh tìm đến với guitar, đàn guitar đa dạng hơn, phong phú hơn, trong những buổi trình diễn trước công chúng, trong những lần cắm trại hay họp mặt bạn bè mà mang cây đàn guitar trễ một bên hông, nó có vẻ như lãng mạn hơn, tình tứ hơn, mang dáng dấp của một gã du ca lãng tử hơn.

Đây là khoảng thời gian mà anh say mê những cung bậc bổng trầm trên cây đàn, anh miệt mài say mê bên lời ca tiếng nhạc. Việc gì đến phải đến, anh rời ghế nhà trường khi vừa học xong chương trình lớp Đệ Nhị (lớp 11 bây giờ).

Từ đây anh bước vào một thế giới mới, không còn gò bó bởi thời gian khi còn ngồi ở ghế nhà trường, trả lại cho thầy những con số, những công thức.

Anh miệt mài hơn, vừa học đàn vừa sáng tác, sự say mê cộng với khả năng thiên phú sẵn có trong anh, để rồi sau bao tháng ngày bên cung bậc bổng trầm và kết quả mà anh đã đạt, hơn sự mong đợi rất nhiều. Năm 1968, lúc anh vừa tròn 25 tuổi, nhạc phẩm đầu tay của anh ra đời “Hoa sứ nhà nàng”.

Giọng ca Chế Linh đưa bài hát bay cao

Trước năm 1975, nam ca sĩ hát tân nhạc ở Sài Gòn thì nhiều, nhưng những nghệ sĩ nổi tiếng thì chỉ đếm được trên đầu ngón tay.

Hát nhạc phòng trà có Elvis Phương, Nhật Trường, Thái Châu..., còn những giọng ca thường xuyên xuất hiện trên đài phát thanh, chiếm lĩnh các chương trình đại nhạc hội ở Sài Gòn và các tỉnh, chiếm được cảm tình của đông đảo quần chúng, giới bình dân, thanh niên nam nữ tuổi mới vào yêu thì phải nói đến Duy Khánh, Hùng Cường và… Chế Linh.

Xã hội - Bản nhạc vàng duy nhất được lưu hành sau giải phóng (Hình 2).

Nhạc sĩ Hoàng Phương

Những bài hát mà Chế Linh thể hiện thường nói về quê hương, tình yêu trong thời chiến tranh, và dù không còn ở độ tuổi cắp sách đến trường nhưng hát về lãnh vực thầy cô, bạn hữu dưới mái trường anh cũng rất thành công.

Và có một điều, hầu hết tất cả những ai đã từng nghe qua tiếng hát Chế Linh đều nhìn nhận rằng anh hát nhạc về tình yêu đôi lứa là tuyệt vời hơn cả.

Khi hát về một mối tình mà kết thúc hai người yêu nhau được trọn vẹn bên nhau, ta nghe như chất giọng anh mượt mà, như đắm say, êm đềm và mật ngọt, tất cả như là một trời hạnh phúc. Cho đến bây giờ, khi có dịp nghe Chế Linh và Thanh Tuyền ca lại, chẳng hạn như bài “Căn Nhà Màu Tím”, thể điệu Bolero, âm giai thứ, nghe sao mà trọn vẹn, yêu nhau và được gần nhau, như một thiên đường trên cõi đời này.

Còn khi anh thể hiện một ca khúc nói lên sự mất mát, chia lìa của tình yêu đôi lứa thì ta nghe như tiếc thương trách móc, chất giọng anh nghe buồn não nuột, xa cách nghìn trùng, …xa nhau là vĩnh biệt, xa nhau là hết rồi.

“Cô đơn dưới ánh đèn vàng”, được viết bằng thể điệu slow, âm giai thứ - bản nhạc có cách đây hàng mấy chục năm, cũng mấy chục năm rồi anh đã hát, giờ nghe lại, như mới hôm qua, trong tất cả chúng ta ai không một lần dang dở, nghe như một lời thổn thức, trách móc oán hờn. Trên thế gian này, tất cả sẽ tàn phai, tình yêu rồi cũng tàn phai. Chế Linh không những hát bằng chất giọng thiên phú của mình, mà cả bằng sự xúc cảm hiện lên nét mặt, nói về nhạc trữ tình thì hầu như anh đều thành công từ thể loại slow, ballade, habanera, boston, rumba, bolero..

Còn cái điệu nhạc gì mà mỗi lần hát trên sân khấu phải có hàng chục người mặc áo chim cò, đầu nhuộm xanh, nhuộm đỏ, nhảy rầm rập thì chưa bao giờ thấy anh hát, anh hát những bài hát nổi tiếng, bất chấp không gian và thời gian, dù ở đâu, ở Việt Nam hay ở nước ngoài, mọi người đều muốn được nghe anh hát. Cho đến hôm nay, những bài hát mà anh đã từng trình diễn thành công như: “Thành phố buồn” của Lam Phương, “Thói đời” của Trúc Phương, “Thương Hận” của Tú Nhi và Hồ Đình Phương, “Hoa Sứ Nhà Nàng” của Hoàng Phương.. thì chưa có một ca sĩ nào thể hiện được như anh.

Ngoài chất giọng mượt mà thiên phú, ngoài khổ công luyện tập để trở thành một ca sĩ hàng đầu, anh còn là một nhạc sĩ sáng tác có tầm cỡ với nghệ danh là Tú Nhi. Những sáng tác của anh thường viết về tình yêu đôi lứa, nói về thế thái nhân tình, nói về những băn khoăn của thanh niên trong thời chinh chiến, dĩ nhiên, những ca từ làm sao mà không dính dáng đến thời cuộc.

Những bài hát của anh, hình như lúc nào nghe cũng buồn, càng não lòng hơn khi những bài hát của anh do chính anh thể hiện, nghe như những kỷ niệm từ một cõi nào xa lắc bất chợt hiện về.

Những ai đã bôn ba, khi nắng đã ngả về chiều, đã hết rồi những tháng ngày lăn lộn, bận lòng gì nữa, ngồi lại và nghe vài bài hát của anh: Bài ca kỷ niệm (viết chung với Bằng Giang), Cho anh được về với quê em, Cứ tưởng còn trong tay, Đêm buồn phố thị, Đêm buồn tỉnh lẻ, Đoạn buồn cho tôi, Đoạn cuối tình yêu, Đoạn tái bút, Giận nhau một tuần, Hát cho người tình phụ, Khu phố ngày xưa, Khung trời kỷ niệm, Trong tầm mắt đời, Mùa xuân trông thư em, Mưa buồn tỉnh lẻ, Nếu chúng mình cách trở, Ngày đó xa rồi, Nỗi buồn sa mạc, Nụ cười chua cay, Sao đổi ngôi, Thị trấn về đêm, Thương hận (viết chung với Hồ Đình Phương), Tình khúc đoạn trường, Xin làm người xa lạ, Xin vẫy tay chào, Xin yêu tôi bằng cả tình người...

Như đã trình bày ở trên, giọng ca của anh hình như thường xuyên xuất hiện trên đài phát thanh Sài Gòn lúc đó, bản nhạc nào mới phát hành mà được anh hát trên đài phát thanh bữa trước thì y như rằng bữa sau tất cả các sạp bán nhạc ngoài phố bán bản nhạc ấy đắt như tôm tươi.

Và “Hoa Sứ Nhà Nàng” là một minh chứng, dạo ấy, khoảng cuối năm 1973, sau khi nghe Chế Linh trình bày bản nhạc buổi trưa ngày hôm trước thì ngay ngày hôm sau các sạp bán lẻ ngoài đường phố không còn một bản nào.

Hồi đó, rạp hát Quốc Thanh (nằm trên đường Trần Hưng Đạo – Sài Gòn) cứ mỗi sáng và chiều chủ nhật hàng tuần thường có chương trình đại nhạc hội do các bầu sô đứng ra tổ chức, nổi tiếng trong các bầu sô thời đó có Tùng Lâm và Duy Ngọc.

Trong phần tân nhạc của chương trình, thường thì nhà tổ chức chỉ cần mời được hai ca sĩ nam nữ gạo cội hát cặp với nhau ăn ý thì coi như phần tân nhạc đã mỹ mãn. Mà hát cặp với nhau trong chương trình đại nhạc hội ở Sài Gòn lúc đó thì nhiều nhưng thật sự chỉ có Hùng Cường – Mai Lệ Huyền, Thanh Lan – Nhật Trường và một cặp ăn khách nhất, đó là Thanh Tuyền – Chế Linh.

Thường thì đôi song ca sẽ trình bày hai bản nhạc cho mỗi chương trình, bản nhạc nào được trình bày, thì trước cửa rạp, gần chỗ bán vé sẽ có một chồng nhạc để bán cho người hâm mộ, chẳng hạn như hôm đó Hùng Cường và Mai Lệ Huyền trình bày nhạc phẩm “Túp Lều Lý Tưởng” thì người ta bán “Túp Lều Lý Tưởng”.

Trong một lần (khoảng đầu năm 1974), người viết bài này cùng vài người bạn trong một buổi sáng chủ nhật đẹp trời đã đến rạp Quốc Thanh, hôm ấy cặp song ca gạo cội Thanh Tuyền – Chế Linh hát bản “Hoa sứ nhà nàng”, và đôi song ca có một không hai này thêm một lần nữa đã đưa nhạc phẩm “Hoa sứ nhà nàng” lên ngất ngưởng trời mây. Tan hát, tôi dự định sẽ ra cửa mua một bản để chiều nay ôm cây Tây ban cầm, ngồi trước mái hiên căn gác trọ nhìn xuống căn nhà kế bên, trước cửa có cây vú sửa, có một người mỗi buổi chiều thường quét lá dưới tàn cây, tôi đàn “Đêm đêm ngửi mùi hương..”. Hương hoa vú sữa và người ấy sẽ nhìn lên… Ra cửa, chồng nhạc cao nghệu đã được bán sạch, không còn một bản nào.

Cho đến tận bây giờ, nhạc phẩm “Hoa Sứ Nhà Nàng” đã được rất nhiều ca sĩ trong nước và hải ngoại đơn ca, song ca nhưng có lẽ chưa có ai qua nổi Chế Linh.

Chế Linh sinh năm 1942 tại Paley Hamu Tanran, gần Phan Rang, (nay thuộc làng Hữu Đức, xã Phước Hữu, Ninh Phước, Ninh Thuận), là một người Việt gốc Chăm, tên Chăm là Chàlen (Jamlen), tên Việt là Lưu Văn Liên. Anh vào Sai Gòn lúc 16 tuổi, làm đủ thứ nghề để sinh sống, bắt đầu ca hát từ năm 1960, ở chế độ cũ anh không phải đi lính vì anh là người dân tộc thiểu số, anh là một ca sĩ nổi tiếng, một nhạc sĩ có tầm cỡ, nhưng đường tình duyên thì lắm ghềnh nhiều thác.

Tính tới tháng 1/2007, anh đang sống với bà vợ thứ tư và có tổng cộng…14 đứa con, (sau khi ly dị anh mới cưới vợ tiếp). Sau khi ra nước ngoài, anh vẫn hành nghề ca sĩ, mọi người nghĩ rằng anh sẽ không trở về Việt Nam nữa. Nhưng rồi anh đã trở về, năm 2007 anh có theo một đoàn văn hóa của Unesco về thăm lại và biểu diễn ở Việt Nam.

Gần đây, Chế Linh cùng các con trở về Việt Nam tổ chức chương trình ca nhạc đại quy mô ở Trung tâm Hội Nghị Quốc Gia Mỹ Đình trong hai đêm, đêm 21/10/2011, và đêm 12/11/2011.

Giọng ca của anh vẫn truyền cảm, mượt mà cuốn hút như ngày nào, vẫn với phong cách chững chạc, biểu lộ từng ca từ bằng cả gương mặt và ánh mắt, anh vẫn bền bỉ trình diễn 20 ca khúc trong một chương trình, điều đó đối với những ca sĩ lớn tuổi như anh là một điều không dễ.

Hôm anh về Mỹ Đình là anh 69 tuổi rồi, còn bây giờ thì đã bước sang tuổi 70, rồi cũng phôi phai... Nhưng có lẽ tiếng hát và những nhạc phẩm của anh sẽ còn vang lên mãi. Hôm ấy, người ta đến xem anh biểu diễn chật cứng cả Trung tâm dù giá vé cao ngất ngưởng.

Tư Hoàng

(Còn tiếp)

* Bài đăng trên ấn phẩm phụ báo ĐSPL