Bên cạnh đó, là những nét mới về không gian - xung quanh người lính Hà Nội và về thời gian - cuộc chiến bảo vệ biên giới Tây Nam, chiến dịch Campuchia, truy lùng tàn quân Pôn Pốt, rồi xuất ngũ về đời thường. Hai tác giả đều là trực tiếp chiến đấu, kể từ ngôi “tôi”, nhưng những điều họ trải qua khá khác biệt, phản ánh phần nào hiện trạng đất nước trước và sau năm 1975. Đây là điều thế hệ hôm nay cần vô cùng, sau khi đã no nê những khí vị lãng mạn, hồng hào hay chán chường, u ám về chiến tranh trong “vệt” hư cấu.
“Mỗi người có quyền ghi lại hồi ức của mình và đồng đội mình theo những cách khác nhau. Với tôi, những câu chuyện kể trong “Lính Hà” hoàn toàn là thực, tên nhân vật cũng thực, chỉ một vài người viết tắt vì không muốn gợi lại chuyện buồn của họ dù thời gian đã gần nửa thế kỷ. “Lính Hà” không chỉ là chuyện của một anh lính đi bộ đội và chiến đấu mà đã cố gắng vượt lên để có một ý nghĩa nào đó. Mong bạn đọc thể tất cho những gì mà tôi chưa viết hết ra được”, Nguyễn Ngọc Tiến chia sẻ.
Tâm thế viết này của Ngọc Tiến trong “Cùng bạn đọc” đã không còn là của người lính kể chuyện nữa. “Đương đại” hơn, nó là của cá nhân độc lập, đã hấp thụ không gian xã hội thoáng đãng. Mọi thứ theo đó khép mở, suy tính liều lượng nghiệt ngã hay tỉnh táo đến đâu. Nó đem lại những tâm thức đọc khác nhau, khi à ồ “thủng” hết chuyện, lúc day dứt vì chưa được “ăn” đủ phải tự đoán tiếp nghĩ tiếp. Về sự chính danh của chiến tranh, anh rạch ròi phân biệt: “Thời chống Mỹ lý tưởng của anh bộ đội rất rõ ràng, chiến đấu để giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc, còn lứa chúng tôi đi để bảo vệ Tổ quốc”.
Mỗi người lính ra đi mang theo hoàn cảnh riêng dù “hưởng” chung quân phong quân kỷ. Sau ngày thống nhất đất nước, sự lên đường không còn đương nhiên như trước. Thái độ khác nhau đến mâu thuẫn trong gia đình người viết cho thấy tâm thức xã hội hồi đó: Mẹ muốn giữ con trong khi bố một mực tôn trọng nghĩa vụ và “đương sự” ra đi day dứt “Ở nhà chắc bố nấu cơm ăn riêng”.
Chiến sĩ thị thành hào hoa, đàn hát bóng bánh giỏi được các em “tít”, nhưng tài hay đi với tật. Họ láu lỉnh, lắm lý sự, hay “tụt tạt tranh thủ”, vô kỷ luật, giở “võ” để có miếng ăn, thuốc hút và đào ngũ, “quay” không phải hiếm. Cánh sĩ quan huấn luyện tân binh bị họ “hành” đâm e ngại không muốn nhận. Nhưng lúc tác chiến, họ đủ lì lợm, dũng cảm, giỏi vận dụng “tủ” huấn luyện để tránh nguy hiểm, phần vì không còn dựa vào ai, phải sinh tồn, phần vì óc quan sát, trí xét đoán dày dạn tích cóp từ cuộc sống phố phường.
Chi tiết là phần đem lại giá trị của văn xuôi phi hư cấu. May thay Ngọc Tiến, có trí nhớ tốt, một “bộ lọc” tinh kỹ nên đã cho ra những mảnh mẩu đắt: Lính tráng đã đi nằm “vẫn cố phun ra một câu”. “Nhìn nắm cơm đỏ màu đất bazan, tôi tưởng tượng mình ăn cơm trộn máu loãng”. “Nỗi buồn làm nhòe phương hướng”. “Ai mà có vợ con hay đứa nào có người yêu thì mưa rừng cao su còn ác hơn đòn roi”. Có những quan hệ anh bỏ lửng rất “ác”: Cuộc tình chen lẫn nghi hoặc với Mi, chủ nhà người Miên phục kích bộ đội Việt vừa cùng thù tạc. Quá trình trở về đời thường cũng gập ghềnh: Các thủ tục dễ mà khó, bị chính “quân ta” “tẩn” trên tàu ra Bắc, không khí gia đình… Thời hậu chiến ngổn ngang quá!
Nhưng, khó nhất lại là vượt qua chính mình, khỏi những di chứng chiến tranh… Tôi đã không để tâm khi Ngọc Tiến kể bị sốt rét thần kinh, vài chục năm rồi chả còn vi trùng mà vẫn sốt “nhắc lại”, ám ảnh đến mức nào chỉ người trong cuộc biết. Có khi ra “Lính Hà”, anh hết được di chứng lạ lùng này…
“Lính Hà” có giọng văn thanh thoát, ít ảnh hưởng lối tưởng tượng kịch bản điện ảnh – nghề Ngọc Tiến được đào tạo. Phải chăng, là vì anh đã sống lại chứ không phải kể lại?
Hoàng Định