71 năm - một quãng thời gian khá “khiêm tốn” so với chiều dài lịch sử dân tộc nhưng cũng đủ để thắp lên ánh sáng tự hào soi rọi hành trình cuộc sống của nhiều thế hệ người Việt. Những người trẻ chúng tôi không được trải nghiệm giờ khắc thiêng liêng của lịch sử khi bản Tuyên ngôn độc lập qua giọng nói của vị cha già dân tộc âm vang lời sông núi cất lên trên quảng trường Ba Đình ngày thu năm ấy: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập”. Dù vậy, cứ mỗi năm, đến dịp thu về, chúng tôi cũng cảm nhận được phần nào hào khí non sông ngày Độc lập qua những thước phim ghi lại cùng lời kể của ông bà, như lửa được một lần phát hiện ra từ đá và cháy mãi đến tận bây giờ.
Lá cờ độc lập, tự do của dân tộc. Ảnh minh họa: Internet
Tuổi thơ tôi lớn lên với tiếng ru của mẹ, bên cánh võng của bà và sự che chở của cha, chẳng phải oằn mình trong mưa bom bão đạn, cũng không phải chịu cay đắng tủi hờn với nỗi đau mất nước “một ngàn năm nô lệ giặc Tàu, một trăm năm nô lệ giặc Tây” như ca từ ngậm ngùi của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Tôi hiểu rằng, mình thực sự may mắn và hạnh phúc khi được sinh ra và lớn lên trong hòa bình, rằng để có được cuộc sống như ngày hôm nay, biết bao máu xương của thế hệ cha ông đi trước đã đổ xuống để giành được Độc lập và Tự do cho mỗi người dân Việt.
Tôi nhớ mãi lúc còn thơ bé, mỗi khi đến ngày Tết Độc lập của dân tộc, giọng ông tôi run run khi nhắc đến cảm xúc được nghe lại lời Tuyên ngôn độc lập qua đài phát thanh. Ông nói lúc đấy hạnh phúc lắm! Tôi không biết ông hạnh phúc đến nhường nào, chỉ thấy mắt ông rơm rớm. Các bác tôi hồi đó nhỏ xíu nên thấy cờ đỏ sao vàng ngập trời, người lớn ăn mặc đẹp cũng vui theo, cha mẹ tôi không được chứng kiến nhưng cũng kể lại cho tôi nghe những năm kỷ niệm Tết Độc lập sau này.
Còn tôi, tôi cảm nhận hạnh phúc theo cách củ