Ngày 11.9 vừa qua Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa đưa vụ án xét xử sơ thẩm bị cáo Nguyễn Thị Phương Dung ra xét xử với tội danh bị truy tố là tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Điều 139 Bộ luật Hình sự đồng thời tuyên án xử phạt bị cáo 17 năm tù giam và bồi thường toàn bộ số tiền bị cáo đã chiếm đoạt.
> Toàn cảnh con đường tù tội của nữ đại gia địa ốc Nha Trang |
Luật sư tại phiên tòa Nguyễn Thị Phương Dung
Tuy là một trong những luật sư tham gia bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa nhưng trong khuôn khổ bài viết này tôi không có ý định trình bày bài bào chữa của mình mà chỉ xin phép được phân tích những hành vi của bị cáo và quy định của pháp luật dưới góc độ luật học, với lòng mong muốn chân thành các luật sư đồng nghiệp, các luật gia của Hội luật gia Việt Nam đặc biệt là các luật gia đang công tác tại các cơ quan trong hệ thống các cơ quan tư pháp Việt Nam chúng ta cùng nghiên cứu trao đổi nhằm tìm ra một sự nhận thức đúng đắn và khách quan nhất.
Tóm tắt vụ án theo cáo trạng và với nội dung tương đối “thống nhất” với bản án như sau:
Năm 2006, Nguyễn Thị Phương Dung thành lập doanh nghiệp tư nhân Phương Dung hoạt động theo giấy phép đăng ký kinh doanh ngày 11/10/2006 do Sở Kế hoạch đầu tư tỉnh Khánh Hòa cấp; với chức năng: Kinh doanh khách sạn, nhà nghỉ, du lịch, mua bán bất động sản, xe ô tô du lịch…Quá trình hoạt động kinh doanh, Dung đã vay tiền của nhiều người và vay tiền của ngân hàng để đầu tư mua 16 bất động sản là nhà đất trên địa bàn thành phố Nha Trang, 10 xe ô tô các loại. Do vậy, khi doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả, doanh thu không đủ trả lương cho nhân viên và bình quân hàng tháng phải chi trả hơn 175 triệu đồng tiền lãi vay ngân hàng…đến cuối năm 2007 doanh nghiệp đi vào làm ăn thua lỗ; hầu hết số bất động sản ngay sau khi mua bằng nguồn vốn vay, Dung đều đem thế chấp ngân hàng vay tiền để trả nợ, lãi cho khoản vay trước; với khoản tiền vay ngân hàng rất lớn, lên đến 44 tỷ 765 triệu đồng, lãi suất phải trả 6.303.807.800 đồng, tiền phạt quá hạn 36.295.412 đồng, dẫn đến không có khả năng thanh toán, nợ kéo dài, buộc ngân hàng phải phát mãi bán tài sản thể chấp hoặc Dung tìm người bán tài sản để thanh toán tiền gốc, lãi, tiền phạt quá hạn cho ngân hàng, 10 xe ô tô cũng bán hết để trả nợ.
Từ cuối năm 2007 và năm 2008 lợi dụng mối quan hệ, quen biết với Đỗ Em, Phạm Thị Mai, Nguyễn Thị Thanh Hoa, Nguyễn Kế Thành và Phạm Thị Sang; Nguyễn Thị Phương Dung đứng ra huy động vốn với lãi suất cao và để vay được tiền Dung còn nói dối người cho vay, mục đích vay là để làm dịch vụ đáo hạn ngân hàng hoặc đầu tư mua bất động sản, Dung cam kết khi nào cần lấy lại tiền thì báo trước 5-10 ngày Dung sẽ trả ngay; tuy nhiên, sau khi nhận tiền Dung không làm dịch vụ đáo hạn ngân hàng và cũng không mua bất động sản mà chiếm đoạt sử dụng vào mục đích bù lỗ trong kinh doanh, trả nợ, lãi vay bên ngoài và lãi vay ngân hàng;…(trích bút lục số 1054 và 1055 của hồ sơ vụ án).
Sau đó là đoạn mô tả chi tiết,chính xác và cụ thể về quá trình mua bán 16 lô đất, 10 ô tô cùng việc thế chấp vay và trả các ngân hàng trên địa bàn của bị cáo Nguyên Thị Phương Dung từ cuối năm 2007 đến cuối năm 2009.
Theo quy định của luật Luật Hình sự nước CHXH Việt Nam tại điều 139 được quy định như sau:
1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai mươi triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Tái phạm nguy hiểm;
d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;
g) Gây hậu quả nghiêm trọng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;
b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. (Còn tiếp).
Ý kiến trao đổi của độc giả xin gửi về email: toasoan@nguoiduatin.vn.
Luật sư Tạ Ngọc Sơn