Chiều ngày 8/1, HĐXX TAND TP.Hà Nội tiếp tục phiên xét xử bị cáo Đinh La Thăng và đồng phạm.
Hồ sơ vụ án thể hiện, ngày 13/5/2011, PVN, PVPower và PVC đã ký Hợp đồng số 4194/HĐ-DKVN chuyển đổi chủ thể Hợp đồng EPC số 33, theo đó chuyển Dự án NMNĐ Thái Bình 2 từ PVPower là chủ đầu tư thành PVN là chủ đầu tư đồng thời PVN nhận và kế thừa mọi trách nhiệm, nghĩa vụ của Hợp đồng EPC số 33 kể từ ngày 1/4/2011.
Ngày 20/9/2011, PVN và PVC ký Biên bản thoả thuận thanh lý Hợp đồng số 4194/HĐ-DKVN ký ngày 13/5/2011 giữa PVN, PVPower, PVC, đồng thời thanh lý Hợp đồng EPC số 33 gói thầu “EPC xây dựng Nhà máy chính” thuộc Dự án đầu tư xây dựng công trình NMNĐ Thái Bình 2. Ngày 11/10/2011, PVN ký lại với PVC Hợp đồng tổng thầu EPC số 9256/HĐ-DKVN thi công gói thầu EPC của Dự án.
Quá trình triển khai, thực hiện dự án, các bị can đã cố ý làm trái các quy định của Nhà nước trong việc lựa chọn nhà thầu, ký Hợp đồng EPC, tạm ứng và sử dụng tiền tạm ứng theo Hợp đồng EPC.
Liên quan đến hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước trong việc triển khai, lựa chọn nhà thầu và ký Hợp đồng EPC của Dự án NMNĐ Thái Bình 2. Tại tòa, bị cáo Vũ Đức Thuận (SN 1971), nguyên Tổng giám đốc công ty Cổ phần xây lắp Dầu khí Việt Nam (PVC) khai Hợp đồng EPC số 33 có 14 điều khoản, bị cáo không nhớ rõ cụ thể là các điều khoản nào. HĐ số 33 này chưa đầy đủ, cụ thể là Hợp đồng này chưa có thiết kế kỹ thuật dự toán duyệt, hồ sơ đề xuất…
Bị cáo Thuận biết điều này nên trước khi ký Hợp đồng EPC cũng đã xin ý kiến của Trịnh Xuân Thanh để có tiền trả nợ ngân hàng và sử dụng vào các mục đích khác.
Cá nhân bị cáo Thuận chưa nhận thức rõ việc chuyển tiền sai mục đích, hơn nữa áp lực trả nợ ngân hàng, có Nghị quyết của HĐQT, có chỉ đạo trực tiếp từ Trịnh Xuân Thanh trong việc đầu tư góp vốn vào các đơn vị khác.
Sau khi làm việc với cơ quan điều tra, bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là sai.
Bị cáo Nguyễn Ngọc Quý, nguyên Phó Chủ tịch PVC khai nhận: Việc tăng vốn điều lệ hoàn toàn dựa vào phương án tái cấu trúc của công ty, duyệt phương án tăng vốn điều lệ. Bị cáo hoàn toàn không biết tăng vốn điều lệ PVC cũng như đầu tư vào 5 công ty con bằng nguồn tiền nào vì quy định là TGĐ có toàn quyền sử dụng vốn, quỹ.
Bị cáo chỉ nắm được báo cáo HĐQT không có văn bản nào chỉ đạo việc sử dụng số tiền tạm ứng sai mục đích.
Tuy nhiên, bị cáo Vũ Đức Thuận cho rằng trong các cuộc họp của công ty đều có đưa ra bàn bạc về việc này và các cuộc họp này có sự tham gia của Quý.
Bị cáo Nguyễn Mạnh Tiến, nguyên Phó TGĐ PVC khai số tiền tạm ứng về Tổng công ty, bị cáo có chi một số khoản góp vốn theo chỉ đạo của Chủ tịch và TGĐ. Là người phụ trách tài chính kế toán của công ty, bị cáo cho biết nhận thức thời điểm đó chỉ nghĩ rằng số tiền vi phạm sẽ được hoàn trả lại. Bị cáo nhận thức được hành vi của bị cáo là sai quy định.
Bị cáo không nhớ số tiền cụ thể mình đã chi, nhưng tổng số tiền tạm ứng là trên 1.300 tỷ đồng và hơn 6 triệu USD, trong số đó bị cáo sử dụng sai mục đích trên 1.300 tỷ đồng.
Bị cáo Phạm Tiến Đạt, nguyên Kế toán trưởng PVC khai khi HĐ EPC số 33 được ký kết, bị cáo chưa được bổ nhiệm làm Kế toán trưởng, sau này có đọc lại HĐ và thấy nhiều nội dung còn sơ sài. Đạt làm báo cáo nhanh về tình hình tài chính được làm hàng tháng, quý, phân tích đánh giá tình hình tài chính của đơn vị. Báo cáo này có gửi lên HĐQT và có báo cáo với Thuận và Tiến.
Thuận có họp đánh giá về tình hình tài chính 6 tháng đầu năm 2011 và khen báo cáo của Đạt làm cẩn thận, dặn bị cáo tập trung thu hồi, giám sát tài chính để làm cho tài chính lành mạnh hơn.
Nội dung báo cáo gồm, đến 30/4/2011 PVC đã đầu tư quá vốn điều lệ 1.013 tỷ, PVC đã vay hơn 800 tỷ trên tổng số 721 tỷ được phê duyệt hạn mức; hầu hết các khoản nợ này đến quý 3/2011 đến hạn trả nợ; tình hình công nợ phải thu của PVC rất lớn và bị các đơn vị chiếm dụng vốn, trong khi PVC phải đi vay lãi ngân hàng; rủi ro tình hình tài chính do các khoản đầu tư của PVC nếu các đơn vị không có những cải thiện trong công tác tài chính thì PVC sẽ phải trích lập dự phòng.
Đối với số tiền tạm ứng cho NMNĐ Thái Bình 2, thời điểm đó tình hình tài chính của PVC mất cân đối trầm trọng. Các khoản nợ vay ngân hàng đến hạn phải trả nợ, nên khi tiền tạm ứng về hầu hết ngân hàng thu nợ trên tài khoản. Không có cách nào khác.
Đối với khoản đầu tư tài chính, theo phương án tăng vốn được ĐHCĐ phê duyệt khi phương án tăng vốn được hoàn thành. Nhưng HĐQT ra nghị quyết góp vốn trước khi phương án tăng vốn hoàn thành. Trước tình trạng đó, bị cáo có báo cáo HĐQT, Ban TGĐ về tình hình tài chính khó khăn, bị cáo biết là mình sai nhưng không có cách nào khác. Liên quan đến khoản đầu tư tài chính bị cáo thực hiện theo nghị quyết HĐQT, bị cáo không nhớ cụ thể ai chỉ đạo trực tiếp vì có rất nhiều nghị quyết.
Riêng khoản trả nợ ngân hàng là 763 tỷ đồng, còn lại đầu tư góp vốn vào các đơn vị hơn 200 tỷ đồng, hỗ trợ vốn lưu động cho các công trình hơn 100 tỷ. Theo nhận thức ban đầu, bị cáo làm về tài chính nên việc thu xếp tiền nhàn rỗi phục vụ cho nhu cầu trước mắt thì sẽ tạm sử dụng sau đó thu hồi về để trả lại, bị cáo nghĩ chắc là sẽ không gây hậu quả gì. Sau này làm việc với cơ quan điều tra, bị cáo đã nhận thức được việc làm đó là sai.
Tư Viễn