Bộ GD&ĐT vừa công bố dự thảo Đề án “Nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý các cơ sở giáo dục đại học và các trường cao đẳng sư phạm đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo giai đoạn 2018-2025, tầm nhìn 2030”. Theo đó, đề án có tổng kinh phí 12.000 tỷ đồng trong đó có mục tiêu đào tạo 9.000 tiến sĩ (TS).
Liên quan đến vấn đề này, bên hành lang QH, PV báo Người Đưa Tin đã có cuộc trao đổi với ĐBQH, PGS.TS Triệu Thế Hùng, Ủy viên Thường trực ủy ban Văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của QH.
PV: Anh đánh giá sao về việc bộ GD&ĐT đặt mục tiêu đến năm 2025 đào tạo 9.000 TS?
ĐB Triệu Thế Hùng: Việc đào tạo 9.000 TS phục vụ cho nâng cao năng lực giảng viên các cơ sở giáo dục ĐH đến năm 2025 là nhiệm vụ không mới. Nó chính là kế thừa Đề án 322 và Đề án 911 đã và đang thực hiện. Trong thời điểm, chúng ta đang thực hiện đổi mới căn bản toàn diện giáo dục nước nhà, nhất là giáo dục ĐH có tác động rất lớn đến việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho phát triển KT-XH, đó là việc tất yếu. Các nhà giáo có vai trò quyết định sự thành bại của công cuộc giáo dục, bên cạnh đó là chính sách pháp luật, cơ sở vật chất. Chính vì thế, việc bồi dưỡng nâng cao chất lượng giảng viên các trường ĐH là phải làm, thường xuyên, liên tục.
PV: Dư luận khá băn khoăn về số lượng 9.000 TS khi chất lượng đào tạo TS ở nhiều cơ sở hiện nay được coi như “lò ấp TS” vì ồ ạt chạy theo số lượng?
ĐB Triệu Thế Hùng: Thực trạng đó là có, do chúng ta có lỗ hổng chính sách, thiếu hậu kiểm, giám sát, có tư tưởng phát triển nóng về số lượng. Tôi cho rằng, việc đào tạo để có bằng Tiến sĩ đã khó nhưng đào tạo ra vị Tiến sĩ có chất lượng là điều rất khó.
Nhìn trở lại Đề án 911 đã và đang triển khai với kỳ vọng đến năm 2020 sẽ có 20.000 TS. Thực tế hiện nay cũng không đạt mục tiêu. Đó là mới nhìn về số lượng thuần túy còn về chất lượng thì chưa có đánh giá tổng kết. Họ đã cống hiến được gì cho giáo dục, cho phát triển kinh tế - xã hội của VN. Tôi cho rằng muốn làm cái mới phải tổng kết cái cũ, từ đó đưa ra quy mô đào tạo bao nhiêu là vừa.
Thực tế nhìn lại cái cũ, chúng tôi thấy có những hạn chế. Hạn chế thứ nhất là những người giỏi có trình độ, đáp ứng điều kiện để đưa sang nước ngoài đào tạo TS không nhiều. Thứ hai là đãi ngộ về kinh tế để thu hút họ chưa phải là thỏa đáng. Việc đưa họ sang nước ngoài đào tạo có chi phí rất cao. Trong lúc đó, kinh phí chúng ta cho họ học ở nước ngoài lại không đáp ứng được. Những người thực sự giỏi, họ sẽ tự tìm nguồn học bổng để được hỗ trợ nhiều hơn chứ không đi theo đề án của Nhà nước. Và họ sẽ có cơ hội tốt hơn khi có bằng TS. Bên cạnh đó, các cơ sở liên kết đào tạo TS với nước ngoài ở VN chưa được nhiều.
Chính vì thế, các cơ sở trong nước muốn chạy theo quy mô, số lượng dẫn đến có cơ sở giáo dục ĐH buông lỏng tiêu chí tạo ra các vị TS nhưng không có năng lực thực khiến dư luận thời gian qua lên tiếng.
PV: Như ông nói, rõ ràng cần tổng kết đánh giá đề án đã triển khai trước khi quyết định đào tạo 9.000 TS mới?
ĐB Triệu Thế Hùng: Đúng như vậy. Dù việc đào tạo 9.000 TS là đề án mới hay tiếp nối đề án cũ thì cũng phải có tổng kết, thống kê rõ ràng. Việc thống kê phải rõ số lượng, đối tượng cần bồi dưỡng, độ tuổi nào, sau khi đào tạo về thì cống hiến được thêm bao nhiêu năm nữa. Các ngành nghề nào chúng ta đã đào tạo được, ngành nghề nào còn thiếu về cơ sở vật chất, ngành nào mới chúng ta chưa có hãy chọn người giỏi để đưa sang nước ngoài đào tạo. Chắc chắn, việc thống kê rõ ràng cho ra con số ít hơn số lượng dự kiến đề án hiện nay. Làm được như thế, chúng ta có thể tăng nguồn tiền để tập trung cho họ được đào tạo đến nơi đến chốn.
PV: Theo ông, con số 9.000 TS là nhiều hay ít?
ĐB Triệu Thế Hùng: Thực tế, số lượng TS trong các cơ sở giáo dục ĐH của chúng ta còn thiếu rất nhiều so với trường ở các nước phát triển. Ở các nước phát triển, tỷ lệ giảng viên là TS chiếm đến 80-90%. Ở ta, tỷ lệ này còn thấp nhất là trường ở top dưới. Chúng ta cần nhưng quy mô đào tạo, số lượng đào tạo TS phải đi đôi với chất lượng.
PV: Xin cảm ơn ông về cuộc trao đổi
Đỗ Thơm (thực hiện)