Hôm nay (27/2), Bộ GD&ĐT tổ chức hội nghị phát triển giáo dục và đào tạo vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Tỉ lệ lao động qua đào tạo thấp nhất cả nước
Báo cáo tình hình phát triển giáo dục và đào tạo vùng ĐBSCL, Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Phạm Ngọc Thưởng cho biết năm học 2019-2020, vùng ĐBSCL có tổng số có 2.002 cơ sở giáo dục mầm non với 584.099 trẻ em; 5.671 cơ sở giáo dục tiểu học với 1.251.886 học sinh; 1.341 cơ sở giáo dục THCS với 994.697 học sinh; 350 cơ sở giáo dục THPT với 433.072 học sinh. Toàn vùng có 176.173 giáo viên các cấp học mầm non, phổ thông.
Trong 10 năm (2011-2021), giáo dục và đào tạo vùng ĐBSCL tiếp tục ổn định và phát triển về quy mô mạng lưới trường, lớp, số học sinh/sinh viên từ mầm non đến đại học, được rà soát, sắp xếp theo hướng phù hợp với nhu cầu xã hội về ngành nghề và đa dạng về loại hình.
Tuy nhiên, giáo dục và đào tạo vùng ĐBSCL còn những tồn tại, hạn chế nhất định. Việc huy động trẻ đến trường còn thấp, nhất là trẻ nhà trẻ. Mạng lưới trường, lớp mầm non còn phân tán, nhiều địa phương còn nhiều điểm trường, đặc biệt là ở những vùng có nhiều kênh rạch, cồn, bãi ngang...
Tỉ lệ huy động học sinh các cấp học phổ thông đi học đúng độ tuổi vẫn thấp hơn tỷ lệ chung của cả nước, đặc biệt ở cấp THCS và cấp THPT có khoảng cách khá xa so với tỷ lệ chung của cả nước (từ 7% - 13%). Tỷ lệ người mù chữ của cả vùng còn cao.
Xây dựng cơ sở vật chất chủ yếu nhằm giải quyết nhu cầu phòng học, nhiều trường còn thiếu phòng học bộ môn, phòng chức năng, phòng làm việc.
Tình trạng thiếu giáo viên còn xảy ra cục bộ ở một số địa phương. Chất lượng phổ cập giáo dục, xóa mù chữ cũng như chất lượng giáo dục đại trà, giáo dục mũi nhọn còn thấp so với mặt bằng chung của cả nước.
Đặc biệt, đây là khu vực có tỉ lệ lao động đã qua đào tạo (14,9%) và tỉ trọng lực lượng lao động có trình độ đại học trở lên (6,8%) thấp nhất cả nước theo báo cáo kinh tế thường niên năm 2022. Mặc dù quy mô đào tạo tăng trong 10 năm qua, song mới chỉ đáp ứng một phần nhu cầu được tiếp cận giáo dục đại học của người dân.
Mong mỏi giáo dục được đầu tư
Tại hội nghị, chia sẻ về kinh nghiệm và kết quả phát triển mạng lưới quy mô trường lớp, ông Trần Quang Bảo, Giám đốc Sở GD&ĐT tỉnh Kiên Giang thông tin sau 5 năm thực hiện sắp xếp tinh gọn bộ máy các đơn vị sự nghiệp, tỉnh Kiên Giang đã giảm được 40 trường do sáp nhập trường có quy mô nhỏ, giảm 521 điểm lẻ, giảm 525 nhóm/lớp, tăng 2 trường mầm non và tăng 3.828 em các cấp học.
Để đảm bảo đội ngũ nhà giáo, Giám đốc Sở GD&ĐT Trà Vinh đề nghị Bộ GD&ĐT xem xét ban hành Thông tư thay thế Thông tư số 16 Hướng dẫn danh mục khung vị trí việc làm và định mức số lượng người làm việc trong các cơ sở giáo dục phổ thông công lập và xem xét tham mưu Chính phủ sớm sửa đổi, bổ sung quy định về chính sách hỗ trợ tiền đóng học phí, chi phí sinh hoạt đối với sinh viên sư phạm.
“Cần quan tâm hơn nữa, đầu tư giáo dục ở mức cao nhất, tốt nhất” là mong mỏi của bà Nguyễn Thị Quyên Thanh, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Long. Theo bà Thanh, với đặc thù địa hình, ĐBSCL có số điểm trường lẻ nhiều nhất cả nước. Do dó, một trong những việc cần được tập trung thực hiện đối với giáo dục ĐBSCL là rà soát mạng lưới giáo dục, khắc phục tình trạng phân tán, điểm nhỏ, điểm lẻ, đảm bảo cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên và chất lượng giáo dục.
Cho rằng, cần có cơ chế, chính sách đặc thù cho giáo dục ĐBSCL, ở đây một số chính sách đặc thù được bà Thanh đề xuất như chính sách đặc thù về tiền ăn trưa cho trẻ mầm non, học sinh lớp 1 ven sông; với tỷ lệ bỏ học cao, cần có chính sách đặc thù về phát triển hệ thống trường nghề, chính sách với học nghề…
Phát biểu kết luận hội nghị, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Kim Sơn đánh giá, giáo dục và đào tạo vùng ĐBSCL trong 10 năm qua đã có bước tiến, bứt phá với nhiều kết quả quan trọng. “Căn cứ vào minh chứng các số liệu có thể khẳng định, ĐBSCL đã thoát khỏi “vùng trũng” về giáo dục. Giờ không thể nói ĐBSCL là “vùng trũng” về giáo dục nữa, thậm chí còn có những điểm khả quan, đáng mừng”, Bộ trưởng nói.
Trao đổi với các địa phương vùng ĐBSCL về những việc cần làm trong thời gian tới, Bộ trưởng đề cập tới các nhóm công việc và giải pháp tổng thể về đầu tư cơ sở hạ tầng,trong đó cấp bách là kiên cố hóa trường lớp, đầu tư trang thiết bị, phòng học bộ môn.
Với quan điểm “Không dồn cho bằng được nhưng không để phân tán quá”, Bộ trưởng lưu ý, việc quy hoạch, sắp xếp mạng lưới trường học cần có phương án phù hợp với khu vực địa hình sông nước, chia cắt như ĐBSCL, khi xây dựng trường học, cần chọn những mẫu trường học phù hợp với địa hình, hướng đến mô hình gần gũi với thiên nhiên.