Giải mã bí ẩn 'Thiên Cổ Miếu' Kinh đô Văn Lang

Giải mã bí ẩn 'Thiên Cổ Miếu' Kinh đô Văn Lang

Thứ 2, 01/04/2013 | 16:43
0
Người dân khắp TP. Việt Trì, Phú Thọ đều có chung một niềm tự hào về "Thiên Cổ Miếu" vì nó là một trong những ngôi đền thờ thầy giáo từ thời Vua Hùng. Đặc biệt, cuốn ngọc phả và những hoành phi câu đối còn giữ lại trong miếu thờ là minh chứng thực tế để khẳng định, Việt Nam đã có một nền giáo dục phát triển mạnh ngay từ khi tổ tiên ta gây dựng nhà nước Văn Lang.

Truyền thuyết sư phụ mẫu

Theo như ngọc phả từ ngôi đền mà dân làng lưu giữ ghi lại, đền đã có cách đây hơn 4.000 năm, tức là thời đại của các Vua Hùng. Ngôi đền là địa chỉ thiêng liêng của người dân thôn Hương Lan, phường Trưng Vương, TP. Việt Trì mà bao đời con cháu trong làng quyết tâm lưu giữ cho muôn đời sau. Hơn 4.000 năm trải qua nhiều thăng trầm biến thiên của lịch sử, nhiều thứ có thể mất đi, nhiều người có thể hy sinh vì sự tồn tại của ngôi đền cổ này. Cũng vì nhiều lần giặc giã xâm phạm muốn phá bỏ di tích mà một thời gian dài trước đây, người dân gọi chệch tên ngôi đền là "miếu Hai Cô".

Lạ & Cười - Giải mã bí ẩn 'Thiên Cổ Miếu' Kinh đô Văn Lang

Toàn cảnh “Thiên Cổ Miếu”, nơi thờ thầy giáo từ thời Hùng Vương.

Tôi tìm đến ngôi đền vào trước ngày giỗ vợ chồng thầy Vũ Thê Lang đúng một ngày. Bởi thế, tôi đã may mắn gặp được nhiều cụ cao niên trong làng, những người trong ban quản lý khi họ đang chuẩn bị công việc cuối cùng cho một ngày giỗ trọng đại. Sau chén trà nóng ngay khu nhà khách cạnh đền, ông Nguyễn Quý Thanh (SN 1953), trưởng tiểu ban quản lý cụm di tích đình, đền, lăng Hương Lan cho biết: "Năm 1990, khi các cụ cao niên trong làng hóa bát nhang ở miếu Hai Cô, chẳng may đền bốc cháy. Trong khi vội vào di chuyển vật dụng trong đền ra bên ngoài, mọi người đã phát hiện ra cuốn ngọc phả và sắc phong của Vua. Từ đó, ngôi đền mới được trả về nguyên mẫu của nó, là đền thờ thầy cô sư phụ, sư mẫu của con Hùng Duệ Vương đời thứ mười bảy chứ không phải miếu Hai Cô như trước đây dân làng vẫn gọi".

Theo đó, tích xưa truyền lại, vợ chồng Vũ Công ở đất Mộ Trạch, Hải Dương là một gia đình có sự học nổi tiếng khắp vùng nhưng gia thế nghèo khó. Bởi thế, họ đã tha hương tìm vùng đất kinh đô mở lớp dạy học mà kiếm tiền sinh sống. Khi đến vùng đất Phong Châu, họ đã dừng chân ở thôn Hương Lan và dạy học có tiếng ở đây.

Dân làng cảm "cái ơn" của hai vợ chồng nhà giáo nghèo đã khai mở trí tuệ cho con cháu họ và cấp cho họ đất ở, ruộng vườn để làm. Không lâu sau khi gắn bó với mảnh đất này, vợ chồng thầy cô giáo sinh hạ được một người con trai khôi ngô tuấn tú, bộc lộ tài trí hơn người ngay từ khi còn nhỏ, đặt tên là Vũ Thê Lang. Khi đến tuổi trưởng thành, một người bạn cũ của Vũ Công là Nguyễn Công ở Đông Ngàn, Kinh Bắc quý mến cậu con trai tài trí của bạn nên đã gả cho con gái là Nguyễn Thị Thục. Đến khi cha mất, Vũ Thê Lang tiếp nối nghiệp cha cùng chung sống một cuộc đời đạm bạc bên người vợ tảo tần nuôi tằm dệt vải.

Tiếng lành đồn xa, sự mẫu mực, chịu khó và tài đức của người thầy giáo làng đã đến tai triều đình lúc bấy giờ. Hùng Vương thứ mười tám mời ông vào kinh, giao cho trọng trách chăm lo sự học của hai cô công chúa là Ngọc Hoa và Tiên Dung. Từ tích cổ này mà một thời gian dài, để tránh điều tiếng và giặc phương Bắc phá hoại, ngôi miếu được dân làng gọi chệch đi là "miếu Hai Cô".

Lạ & Cười - Giải mã bí ẩn 'Thiên Cổ Miếu' Kinh đô Văn Lang (Hình 2).

Mộ phần vợ chồng thầy giáo Vũ Thê Lang trong Thiên Cổ Miếu.

Trò chuyện với PV, ông Nguyễn Quý Thanh cho biết: "Truyền theo ngọc phả thì vợ chồng thầy Lang tuy không sinh cùng ngày, cùng tháng, cùng năm nhưng lại tạ thế cùng một giờ vào ngày 2 tháng 2 năm Quý Dậu (228 trước Công Nguyên) và được người dân chôn cất cùng một ngôi mộ nằm ở chính giữa ngôi đền này. Do đó, đền rất linh thiêng và có ý nghĩa vì đó là đền thờ thầy giáo từ thời mở nước. Sau nhiều lần trùng tu, sang sửa, phần đền đã có nhiều sự thay đổi nhưng nguyên phần mộ ở giữa thì không ai dám động vào".

Vợ chồng thầy giáo Vũ Thê Lang sinh hạ được ba người con trai thì cả ba đều không lập gia đình và làm phò tá tích cực cho Vua Hùng. Chính vì vậy, đến khi họ mất, Hùng Vương đã phong cho cả ba làm Thành Hoàng làng và giao cho làng Hương Lan thờ cúng. Ngày nay, phần mộ của ba vị Thành Hoàng nằm cách mộ phần của cha mẹ chừng 300m. Tại Thiên Cổ Miếu, nơi thờ tự người thầy đã có công dạy học cho hai cô công chúa con Vua Hùng vẫn còn đôi câu đối bằng gỗ viết bằng chữ Hán: "Hùng lĩnh trung chi thắng tích/ Nam thiên trích khí linh từ" (dịch nghĩa đại ý là: Ngôi đền thiêng thờ người có chí khí mạnh mẽ lớn lao của nước Nam). Hai bên cửa võng có hai câu: "Đạo học nét son ngời Lạc Việt/Văn minh dấu ấn rạng Hùng Vương". Còn các hoành phi câu đối trong đền thì được ghi có từ thời vua Tự Đức năm thứ nhất 1848.

Tự hào nền giáo dục đầu tiên

Ngôi đền có diện tích khá khiêm tốn nằm lặng lẽ dưới tán hai cây táu cổ thụ. Ông Thanh không giấu nổi niềm tự hào chỉ vào hai cây táu cho biết: "Hai cây này đã được đưa vào danh sách cây di sản của Việt Nam. Đến tháng 5, hai cây táu sẽ cùng trổ hoa và cũng cùng rụng hoa vào một thời điểm. Tuy nhiên, một cây hoa màu vàng, một cây hoa màu trắng rất kỳ thú. Người dân vẫn cho rằng, ngôi đền linh thiêng từ những điều thuộc về tự nhiên như thế".

Ông Đỗ Văn Xuyền (SN 1937), người thầy giáo đã có nhiều năm bỏ công sức nghiên cứu về chữ Việt cổ cho biết: "Mặc dù chưa có một nghiên cứu khảo cổ nào khẳng định nền giáo dục thời đại Văn Lang phát triển đến mức nào, nhưng chắc chắn ngay từ thời đại mở nước, dân tộc ta đã có truyền thống hiếu học và có chữ viết riêng để khẳng định cho việc học ấy".

Ông Xuyền chia sẻ: "Nhiều năm qua, tôi cũng vì nỗi đau tiếc một đất nước nghìn năm văn hiến mà không có chữ viết cho riêng mình, cứ phải mang tiếng mượn chữ của người khác nên mới mải miết đi giải mã chữ Việt cổ. Khi giải mã được rồi, khẳng định được cái sự học ở nước ta đã có từ thời Hùng Vương và chữ viết cũng ra đời từ ngày đó thì không chỉ tôi mà rất nhiều người Việt Nam phải òa khóc".

Đôi mắt người thầy cả một đời mải miết đi giải mã chữ Việt cổ bỗng rưng rưng khiến niềm tự hào lây lan sang cả tâm trạng người đối diện như tôi. Tôi hiểu, người ta khóc vì niềm hạnh phúc khi đã khẳng định được hệ thống giáo dục hưng thịnh ngay từ thời kỳ đầu cha ông mở nước. Điều đó cũng có nghĩa là người Việt ta đã có chữ viết của riêng mình mà phát triển lên chứ không còn chịu tiếng là người đi mượn chữ nữa.
Cũng theo ông Xuyền, không chỉ có đền thờ thầy Vũ Thê Lang mà trên khắp đất nước Việt Nam còn tồn tại rất nhiều ngôi đền thờ các thầy giáo đã có công giảng dạy từ thời Vua Hùng. Ông khẳng định: "Tôi có thể kể tên từng địa danh có đền, tên từng người thầy, từng học trò của họ. Tôi nghĩ rằng đó là một điều đáng tự hào cho cả dân tộc".

Theo lời kể của ông Xuyền, những năm gần đây, nhiều Việt kiều ở các nước như Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Canada, Úc,... khi nghe nói về chữ Việt cổ đã tìm về gặp ông để được nhìn thấy những con chữ đầu tiên của tổ tiên mình. Họ đã cảm động rơi nước mắt khi biết người Việt ta không còn bị mang tiếng là đi mượn chữ nữa, mà chúng ta đã có chữ ngay từ ngày đầu lập nước Văn Lang. Nhiều người tha thiết được đăng ký vào lớp học chữ Việt cổ của ông Xuyền mở ra. “Tuy nhiên, đến nay, tôi vẫn còn áy náy vì chưa đáp ứng được hết ước nguyện của họ", ông Xuyền nói.

Cuối cuộc trò chuyện, ông Xuyền nói với chúng tôi rằng: "Chúng ta đều đã biết trường đại học đầu tiên của Việt Nam là Văn Miếu được thành lập năm 1075, thời nhà Lý. Tuy nhiên, với những dấu tích tại ngôi đền và nghiên cứu giải mã được chữ Việt cổ thì có thể khẳng định, ngay từ thời Hùng Vương, nước ta đã có một nền giáo dục phát triển. Ngày nay, càng ngày càng có nhiều người tìm đến "Thiên Cổ Miếu" để tri ân với truyền thống tôn sư trọng đạo. Đây là một trong những nét đẹp của văn hóa người Việt".       

Ông Xuyền rất tự hào: "Ngày nay, đã có rất nhiều người có thể đọc được chữ Việt cổ do tôi và các nhà nghiên cứu giải mã. Đây là điều khiến tôi tâm đắc nhất và hạnh phúc hơn bất cứ thứ phần thưởng nào. Bởi tôi sống đơn giản chỉ luôn tha thiết lưu giữ lịch sử cho con cháu muôn đời sau". 

Dương Thu

Ngôi miếu thờ những nhà giáo quá cố

Thứ 5, 21/02/2013 | 10:52
Chẳng biết ngôi miếu có từ khi nào và ban đầu thờ ai nhưng sau này, một số giáo viên đã hàng ngày thắp hương để tưởng nhớ về những nhà giáo đã qua đời.

Phố ông đồ Văn Miếu: 'Tưởng rằng đồ thật hoá đồ chơi...'

Thứ 5, 21/02/2013 | 10:49
Xin chữ ngày tết vốn là một nét văn hoá đẹp của người Việt từ hàng ngàn năm nay. Câu đối đỏ cũng như cây nêu, cành đào, bánh chưng xanh, là biểu tượng của sự sum họp gia đình, tưởng nhớ và giữ vững đạo tổ tiên. Chính vì vậy, chữ treo trong nhà còn là thể hiện sự thành kính, mong ước của gia chủ. Những con chữ đó, vốn chỉ được viết ra bởi những người đạo cao đức trọng.

Chuyện về ngôi miếu chỉ... 'bắt' đàn ông

Thứ 2, 04/02/2013 | 14:38
Hàng chục năm nay, có không ít nam thanh niên chết vì tai nạn giao thông ở đoạn đường gần khu vực ngôi miếu bà Thanh. Chính điều này đã vô tình tạo thành cái cớ về lời đồn thổi ngôi miếu chỉ “thích bắt” đàn ông.

"Sách phỉ báng Phật giáo được tôn vinh tại Văn Miếu"

Thứ 2, 05/08/2013 | 16:28
Tờ Giác Ngộ, cơ quan của Thành hội Phật giáo TP Hồ Chí Minh vừa cho biết, một cuốn sách "phỉ báng Phật giáo Việt Nam" vừa được tôn vinh ở Văn Miếu.

Kho xương người nơi miếu lạ hé lộ địa danh lịch sử?

Thứ 5, 27/12/2012 | 23:41
Mỗi khi có mưa lớn, xung quanh ngôi miếu cổ "Ba Thắc Cổ Miếu" ở ấp Chợ Cũ, huyện Mỹ Xuyên, Sóc Trăng lại xuất hiện nhiều bộ xương người. Từ những bộ xương vô danh ấy, người ta thêu dệt nên những câu chuyện mang màu sắc huyền bí, dị đoan.