Hơn 500 doanh nghiệp"bỗng dưng"... vắng chủ
Cuối tháng 7 vừa qua, hàng trăm khách hàng của dự án Tricon Tower (khu đô thị Bắc An Khánh, huyện Hoài Đức, Hà Nội) đã kéo đến công ty cổ phần đầu tư Minh Việt - chủ đầu tư dự án để đòi tiền nộp mua nhà. Theo thiết kế dự án này có ba tòa nhà cao 45 tầng với năm loại căn hộ, giá bán 1.500-1.800 USD/m2. Chủ đầu tư cam kết sẽ bàn giao nhà chậm nhất là ngày 30/6/2012. Tuy nhiên, đến nay dự án mới chỉ xong tầng hầm và nằm đắp chiếu từ năm 2011. Văn phòng chủ đầu tư của dự án là công ty đầu tư Minh Việt (tòa nhà C1, D6, phường Dịch Vọng Hậu, quận Cầu Giấy, Hà Nội) đã đóng cửa từ nhiều tháng nay. Và có thông tin, ông Edward Chi (người Mỹ gốc Trung Quốc) - chủ tịch HĐQT của công ty này - đã âm thầm bỏ trốn cùng với hơn 400 tỷ đồng của khách hàng. Những khách hàng có đòi được tiền hay không vẫn là câu hỏi không có câu trả lời.
Tình trạng doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) bỏ trốn trong thời gian qua không còn là hiếm, trái lại thực trạng này đang ngày càng gia tăng. Một cuộc họp đặc biệt vừa diễn ra tại bộ Kế hoạch và Đầu tư để thảo luận về giải pháp đối với các doanh nghiệp FDI vắng chủ. Một lãnh đạo của Bộ cho hay: "Tình trạng chủ DN FDI bỏ trốn về nước, hoặc không liên lạc được trong thời gian gần đây có sự gia tăng đáng kể". Cụ thể, hiện có tới trên 500 DN FDI không có người đứng đầu, hay nói đúng hơn là "vắng chủ" với tổng số vốn đăng ký đầu tư khoảng 903 triệu USD.
Chủ đầu tư dự án Tricon Tower đã ôm tiền bỏ trốn.
Bình Dương là một tỉnh thu hút được lượng vốn FDI lớn và cũng là tỉnh có bản danh sách các doanh nghiệp cần truy tìm tung tích dài dằng dặc. Theo cục thuế tỉnh này, chủ đầu tư những công ty như TNHH Deok Chang Complex, TNHH Woodus, TNHH LD Scanmach Việt Nam, Diing Long Việt Nam... đã rời đi mà không để lại dấu vết. Các địa phương khác như Hà Nội, TP. HCM cũng có bản danh sách chủ FDI bỏ trốn dài không kém.
Các doanh nghiệp này đến từ những nước láng giếng như: Trung Quốc, Hàn Quốc, hoạt động trong các lĩnh vực dịch vụ như quản lý doanh nghiệp, xây dựng, bất động sản, thương mại, phần mềm, nhà hàng... Số còn lại hoạt động trong lĩnh vực sản xuất. Hầu hết các doanh nghiệp này đều có quy mô nhỏ dưới 500 ngàn USD và thuê lại nhà xưởng của các nhà đầu tư khác mà không có hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản.
Cũng theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nguyên nhân của tình hình nêu trên là do các doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả, không hoàn thành nghĩa vụ tài chính với Nhà nước, không trả được lương cho người lao động, không trả được nợ... nên phải đóng cửa, ngừng kinh doanh. Mặt khác do thủ tục chấm dứt hoạt động, thanh lý và giải thể doanh nghiệp thường mất nhiều thời gian và tốn chi phí nên nhiều nhà đầu tư đã bỏ về nước, không thực hiện các thủ tục này.
Được biết, hầu hết các doanh nghiệp trên đều nợ bảo hiểm xã hội, sổ bảo hiểm xã hội hoặc không trả lại sổ bảo hiểm cho người lao động ảnh hưởng đến việc hưởng chế độ bảo hiểm của người lao động. Trong khi đó từ năm 2009 tới nay, nước ta không có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định về việc hỗ trợ người lao động trong trường hợp như trên.
Luật còn lỏng lẻo
Trao đổi với PV, TS. Cao Sỹ Kiêm - chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam (VINASME), nguyên phó trưởng ban Kinh tế Trung ương cho rằng: "Đây cũng là một hiện tượng có nhiều vấn đề phải bàn. Thứ nhất, đó là một biểu hiện và đang ngày càng phát sinh nhất là ở các khu công nghiệp tập trung. Do sản xuất khó khăn, chủ các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ và phải bỏ trốn về nước để "bùng" nợ.
Thứ hai, từ hiện tượng đó cho thấy quy định, luật lệ của chúng ta còn chưa chặt chẽ và có những bất cập nên khi chủ đầu tư chuẩn bị bỏ về nước chúng ta không phát hiện được, khi phát hiện ra thì xử lý cũng rất khó khăn.
Thứ ba, là một hiện tượng mới nảy sinh nhưng nó rất quan trọng và ảnh hưởng tới kinh tế của đất nước cũng như quyền lợi của người công nhân. Công nhân bị mất việc làm, không được hưởng bảo hiểm và không có ai chịu trách nhiệm... Điều này gây hoang mang trong một bộ phận không nhỏ người lao động ở trong khu vực".
Từ thực tế trên, TS. Cao Sỹ Kiêm cho rằng, trong quá trình quy hoạch phát triển sản xuất cũng như kiểm tra kiểm soát hoạt động này cần phải chỉnh sửa bổ sung. Ông Kiêm cũng cho rằng: "Để ngăn chặn tình trạng này cần bổ sung cơ chế, quy chế, quy định. Ví dụ như điều kiện thành lập doanh nghiệp, điều kiện phê duyệt về nhân sự, kiểm tra thường xuyên về nhân sự. Nếu chúng ta kiểm tra thường xuyên, phát hiện ra sai phạm và có những chế tài với từng nhân sự một thì đã khác và khả năng chạy trốn là ít. Bên cạnh đó cần xác minh các yếu tố ở bên ngoài để bớt rủi ro, khi xảy ra chuyện chạy trốn thì mình có thể truy cứu được. Còn với những trường hợp đã xảy ra rồi thì cơ quan chức năng cần phải vào cuộc để giải quyết và đảm bảo quyền lợi tích cực nhất cho người lao động.
Đồng quan điểm với TS. Cao Sỹ Kiêm, TS. Nguyễn Minh Phong, chuyên gia kinh tế cao cấp cũng cho rằng, luật của chúng ta trong lĩnh vực này còn hổng. Khi doanh nghiệp làm ăn thua lỗ và phải đối mặt với cả đống nợ chồng chất, họ bỏ chạy, chúng ta cũng không biết xử lý ra sao. "Luật của chúng ta chưa rõ, chưa có truy cứu trách nhiệm và dẫn độ ngược trở lại. Bên cạnh đó, người đứng ra để kiện cũng không có đủ lực, không đủ hiểu biết để kiện...", ông Phong chia sẻ.
Việc chủ doanh nghiệp bỏ trốn, theo TS. Nguyễn Minh Phong sẽ để lại những hậu quả không tốt, làm cho quyền lợi của người liên quan như công nhân, ngành thuế... bị ảnh hưởng nặng nề, gây ra gánh nặng đột ngột cho bộ phận an sinh xã hội, từ bảo hiểm thất nghiệp cho đến các chế độ khác, làm biến động môi trường đầu tư của Việt Nam. Bên cạnh đó, chưa kể những đối tượng này về nước nói xấu, xuyên tạc môi trường đầu tư ở nước ta, bởi hầu hết khi thất bại, người ta thường đổ lỗi do khách quan.
Tiến sỹ Nguyễn Minh Phong cho rằng, cần bổ sung vào luật những quy định rõ ràng: "Trong luật Phá sản phải bổ sung thêm những quy định về việc chủ doanh nghiệp bỏ trốn. Phải ký với các đối tác đầu tư vào Việt Nam những luật mang tính chất hồi tố, dẫn độ. Ví dụ người Mỹ đầu tư vào Việt Nam vẫn còn nợ thuế mà bỏ trốn thì đề nghị dẫn độ hoặc xử lý theo luật Việt Nam. Mỹ phải có vai trò trong việc cung cấp người bỏ trốn đó và tuân thủ quyết định của tòa án Việt Nam". |
Thành Huế