Theo quy định của pháp luật thì giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.
Bên cạnh nguyên tắc tôn trọng quyền tự do thỏa thuận của các bên trong giao dịch, thì pháp luật cũng đặt ra một số những yêu cầu tối thiểu buộc các chủ thể phải tuân thủ theo – đó là các điều kiện có hiệu lực của giao dịch. Một trong các điều kiện đó có điều kiện về hình thức của giao dịch.
Khi một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ thì giao dịch vi phạm về hình thức vẫn có hiệu lực (ảnh minh họa).
Cụ thể, trong trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản, phải có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép thì phải tuân theo các quy định đó. Nếu không tuân thủ điều kiện này thì giao dịch đó sẽ vô hiệu.
Tại Điều 143 Bộ luật dân sự (BLDS) 2005 thì “Trong trường hợp pháp luật quy định hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch mà các bên không tuân theo thì theo yêu cầu của một hoặc các bên, Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch trong một thời hạn; quá thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch vô hiệu”.
Theo quy định trên thì khi giao dịch vi phạm về mặt hình thức thì pháp luật cho phép các bên hoàn thiện về mặt hình thức của giao dịch trong một thời gian nhất định. Và nếu quá thời gian đó các bên không thực hiện thì đương nhiên giao dịch sẽ vô hiệu.
Trong quan hệ dân sự không phải ai cũng nắm rõ được các quy định cụ thể về mặt hình thức của loại giao dịch mà mình tham gia. Khi các bên đã thực hiện nghĩa vụ, một trong các bên không muốn hoàn thiện về mặt hình thức nên gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của bên ngay tình còn lại. Để khắc phục tình trạ