TS.Lê Doãn Hợp

Đại hội VI của Đảng diễn ra trong bối cảnh đất nước gặp muôn vàn khó khăn. Kể từ năm 1975, chính sách bao vây, cô lập và cấm vận của Hoa Kỳ đối với Việt Nam rất nặng nề và gây ra nhiều khó khăn, thử thách chưa từng có cho Việt Nam. Quan hệ Việt – Trung ở thế đối đầu căng thẳng. Liên Xô lâm vào khủng hoảng trầm trọng, cắt hết nguồn viện trợ cho Việt Nam. Trong bối cảnh đó, ở trong nước, những khuyết điểm của mô hình kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp làm cho kinh tế - xã hội rơi vào trì trệ, lạm phát phi mã, kéo dài, đời sống nhân dân gặp rất nhiều khó khăn.

Trong bối cảnh đó, ngày 10/7/1986, Tổng Bí thư Lê Duẩn từ trần. Ngày 14/7/1986, đồng chí Trường Chinh - Chủ tịch Hội đồng Nhà nước được Ban Chấp hành Trung ương bầu làm Tổng Bí thư của Đảng. Dù chỉ giữ vị trí người đứng đầu Đảng trong vòng 5 tháng, đồng chí Trường Chinh đã để lại di sản vô cùng to lớn – đó là những tư tưởng đổi mới mang tính đột phá được xác lập trong Văn kiện Đại hội VI của Đảng với phương châm “Đổi mới hay là chết”.

Những nội dung đổi mới đột phá về tư duy và nhận thức được khởi nguồn từ Đại hội VI và kế thừa trong các kỳ đại hội nối tiếp, được thể hiện trên 5 phương diện: Một là thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần, cùng tồn tại cạnh tranh và phát triển, trong đó kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng. Hai là mở rộng quan hệ quốc tế với tất cả các Đảng cầm quyền trên thế giới, thực hiện chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa và hội nhập quốc tế. Ba là khẳng định người Việt Nam định cư ở nước ngoài là một bộ phận không thể tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Bốn là xác định xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Năm là xã hội hóa các nguồn lực để xây dựng và phát triển đất nước.

Nhìn lại chặng đường gần 40 năm kiên định trên con đường đổi mới, chúng ta càng thấm thía về giá trị của bước ngoặt lịch sử mà Đại hội VI khởi đầu, đã tạo ra những bước đi đột phá lớn và toàn diện, đem lại luồng sinh khí mới cho xã hội, làm xoay chuyển tình hình, để đất nước bừng sáng. Từ một nước trước đổi mới còn khủng hoảng, trì trệ, lưu thông phân phối ách tắc, rối ren, hàng hóa khan hiếm, đời sống các tầng lớp nhân dân gặp nhiều khó khăn, một bộ phận nhân dân nao núng, giảm sút niềm tin; sau 40 năm đổi mới, đã thành một Việt Nam năng động, phát triển, chuyển đổi thành công sang mô hình và cơ chế quản lý kinh tế mới, có mức tăng trưởng kinh tế cao, liên tục trong nhiều năm, vị thế, uy tín, quan hệ ngoại giao ngày càng rộng mở và nâng cao, được đánh giá là quốc gia có môi trường chính trị ổn định, là địa chỉ tin cậy cho các nhà đầu tư quốc tế.

Thế và lực được tích lũy sau 40 năm đổi mới đang đặt đất nước đứng trước thời cơ nâng tầm sự phát triển. Lịch sử của nhân loại và bài học của chính đất nước đã chứng minh để bước vào một giai đoạn phát triển mới đòi hỏi cần sự bứt phá mạnh mẽ cả nhận thức và hành động. Đã đến lúc cần khởi động công cuộc Đổi mới lần thứ 2 với tham vọng phát triển mạnh mẽ hơn và Đại hội lần thứ XIV tới đây của Đảng cần thiết phải khởi đầu cho công cuộc đó. Trong đó, trọng tâm của Đổi mới lần 2 chính là việc tháo gỡ được 3 điểm nghẽn lớn nhất hiện nay là thể chế, hạ tầng và nguồn nhân lực.

Về thể chế, cần quyết liệt thực hiện việc sắp xếp, tinh gọn bộ máy gọn nhẹ, văn minh, vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tránh tình trạng chồng chéo chức năng, lãng phí nguồn lực. Tinh gọn bộ máy, giảm biên chế phải gắn liền với công tác phân cấp, phân quyền, trong đó phải tôn trọng 5 nguyên tắc. Thứ nhất, cấp nào chịu trách nhiệm trực tiếp thì cấp đó ra quyết định. Thứ hai, cấp nào nhận đủ thông tin thì ưu tiên cho cấp đó ra quyết định. Thứ ba, cấp nào gần cán bộ nhất, hiểu cán bộ nhất thì cấp đó ra quyết định. Thứ tư, phân cấp, phân quyền phải bảo đảm 3 rõ "rõ việc, rõ người, rõ trách nhiệm”. Thứ năm, phân cấp lệ thuộc về đạo đức, năng lực, tín nhiệm của cán bộ. Ngay sau khi thực hiện việc sắp xếp, tinh gọn bộ máy, cần thực hiện đồng bộ 3 việc: Một là đốc thúc cấp dưới giải quyết công việc nhanh và hiệu quả hơn. Hai là tăng cường kiểm tra, giám sát để thực hiện khen, chê, thưởng, phạt nghiêm túc, kịp thời. Ba là bám sát thực tiễn cuộc sống để điều chỉnh những nội dung phân cấp, phân quyền chưa hợp lý.

Bên cạnh đó, để bước vào công cuộc Đổi mới lần 2, cần phải có đột phá thực sự trong cơ chế chính sách phát triển nền kinh tế, khơi thông mọi nguồn lực, phải chuyển từ cơ chế dễ quản lý sang cơ chế dễ làm giàu, kiến tạo phát triển. Những điều nhà nước không cấm thì phải “mở toang cửa” cho doanh nghiệp và dân làm; không bắt doanh nghiệp và nhân dân xin những điều pháp luật không cấm, để phải chờ đợi mất cơ hội và mất thêm chi phí. Cần dồn sức lo cho doanh nghiệp, tạo cơ chế để doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển nhanh và bền vững hơn, nâng cao sức mạnh nội sinh của nền kinh tế.

Ngoài ra, phải có cơ chế chọn nhân tài chính xác, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp chiến lược thật sự trong sạch, đủ năng lực, trình độ, bản lĩnh, sáng tạo, thực sự dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm để thiết kế, dẫn dắt quá trình bứt phá phát triển của đất nước.

Về hạ tầng, một trong những nguyên tắc phát triển nền kinh tế của mỗi quốc gia là phải đầu tư vào hạ tầng kỹ thuật, trong đó chú trọng đến 7 nhóm hạ tầng: Giao thông, thủy lợi, thông tin, năng lượng, cảng biển, sân bay và hạ tầng công nghệ thông tin. Nếu không thể gỡ được nút thắt về hạ tầng, đất nước không thể phát triển nhanh. Tuy nhiên, để phát triển cơ sở hạ tầng đồng bộ cần có một nguồn lực rất lớn, do đó, cần xây dựng cơ chế đẩy mạnh huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực xã hội, đa dạng hoá các hình thức đầu tư trong lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng. Cần phải quán triệt tư duy ai quản lý tốt nhất thì giao, việc gì người dân doanh nghiệp làm tốt thì giao. Nhà nước không làm những việc dân và doanh nghiệp làm có hiệu quả hơn. Đặc biệt, để không bị tụt hậu trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cần tạo bứt phá trong phát triển hạ tầng công nghệ thông tin, viễn thông, xây dựng, kết nối cơ sở dữ liệu quốc gia... tạo nền tảng chuyển đổi số quốc gia, từng bước phát triển kinh tế số, xã hội số.

Về nguồn nhân lực, phải thực sự đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cả về số lượng và chất lượng, với năm 5 nội dung trọng tâm. Trước hết, phải chuyển từ tư duy học để làm quan, làm thầy sang học để làm giàu. Thứ hai, chuyền từ học để có bằng cấp sang học để có kiến thức thực sự. Thứ ba, chuyển từ học đơn ngành sang đa ngành, giỏi một nghề nhưng phải biết những nghề có liên quan để làm việc có hiệu quả cao hơn. Thứ tư, chuyển từ học theo ý thích của cha mẹ sang học theo năng khiếu sở trường của con trẻ, để phát huy tối đa được năng lực của con người. Thứ năm, học ở trường lớp gắn với học trong công việc và cuộc sống. Bên cạnh đó, để có nguồn lực cho phát triển kinh tế, cần có các trường đào tạo doanh nhân để phát triển đội ngũ doanh nhân giỏi, doanh nghiệp mạnh. Đặc biệt, trong thời kỳ hội nhập và công nghệ số, cần đào tạo con người theo hướng có đức, tài, kỷ luật, kỷ cương, ý thức trách nhiệm cao với công dân, xã hội; có kỹ năng sống, kỹ năng làm việc, ngoại ngữ, công nghệ thông tin, công nghệ số, tư duy sáng tạo và hội nhập quốc tế sâu rộng.

Đất nước đang đứng trước thời điểm lịch sử. Điều quan trọng là dũng cảm tự đổi mới chính mình bằng cả tư duy và nhận thức để tận dụng những thời cơ, thuận lợi của thời đại, vượt qua khó khăn thách thức, phát huy nội lực, thu hút ngoại lực để con thuyền Việt Nam đạt được những kỳ tích mới, thực hiện thành công khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, sớm sánh vai với các cường quốc năm châu như Bác Hồ hằng mong ước.

Tác giả: TS.Lê Doãn Hợp

Thiết kế: Hoàng Yến

NGUOIDUATIN.VN |