Nguồn lực thể chế đã và đang được khơi thông, khi Quốc hội không ngừng đổi mới tư duy lập pháp, nâng cao hiệu quả quyết sách và giám sát, đồng thời phối hợp chặt chẽ với cơ quan hành pháp để tháo gỡ các điểm nghẽn thực tiễn.
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính từng nhấn mạnh tại lễ Kỷ niệm 80 năm ngày truyền thống ngành Tư pháp rằng: “Chúng ta đã từng bước hiện thực hóa một nền pháp quyền nhân nghĩa dựa trên đạo lý, vì lợi ích của đất nước, của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; phải tiếp tục chuyển đổi trạng thái, đưa công tác xây dựng và thi hành pháp luật từ “điểm nghẽn của điểm nghẽn” trở thành “đột phá của đột phá”, là “điểm tựa, đòn bẩy”, đi sớm, đi trước mở đường cho đột phá phát triển”.
Trong nhiệm kỳ qua, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ ưu tiên, dành nhiều thời gian thảo luận, cho ý kiến về dự thảo văn bản quy phạm pháp luật tại các phiên họp thường kỳ và các phiên họp chuyên đề về xây dựng pháp luật.
Đáng chú ý, trong 5 năm qua, Thủ tướng và các Phó Thủ tướng đã thực hiện hơn 400 chuyến công tác về làm việc với địa phương, cơ sở để kiểm tra, hướng dẫn thi hành Hiến pháp, pháp luật, nắm chắc tình hình thực tiễn, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc; siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong tổ chức, thi hành pháp luật và đề cao trách nhiệm người đứng đầu, đảm bảo nguồn lực để thực hiện pháp luật.
Tại phiên họp chuyên đề Ban Chỉ đạo Trung ương về hoàn thiện thể chế, pháp luật đầu tháng 8/2025, Tổng Bí thư Tô Lâm ghi nhận, đánh giá cao các Bộ, ngành và Chính phủ đã hoàn thành khối lượng công việc lớn trong thời gian ngắn, đồng thời yêu cầu xử lý ngay, triệt để những điểm nghẽn đã được phát hiện, không để tiếp tục cản trở phát triển và khơi thông nguồn lực.
Tổng Bí thư Tô Lâm đề nghị bổ sung 25/47 luật vào Chương trình lập pháp năm 2025 của Quốc hội để giải quyết kịp thời những vướng mắc liên quan đến luật. Đồng thời chỉ đạo Chính phủ và các Bộ, ngành tiếp tục rà soát, hoàn thiện phương án xử lý 834 khó khăn, vướng mắc đã thu thập, gắn trách nhiệm rõ ràng với người đứng đầu, đảm bảo nguồn lực và hiệu quả thực thi pháp luật.
Tổng Bí thư Tô Lâm lưu ý, cần bám sát vào thực tiễn, tập trung giải quyết các vấn đề đang cản trở sự phát triển, bảo đảm được mục tiêu năm 2025 cơ bản hoàn thành việc tháo gỡ “điểm nghẽn” do quy định pháp luật.
Trên nền tảng các chỉ đạo chiến lược đó, Quốc hội và các đại biểu cũng đang đổi mới mạnh mẽ tư duy lập pháp, nâng cao hiệu quả giám sát và quyết sách, gắn kết chặt chẽ với đời sống thực tiễn, nhất là trong bối cảnh Quốc hội tinh gọn và hiện đại hơn, câu chuyện đổi mới phương thức làm việc không chỉ là thay đổi hình thức mà là thay đổi cách tư duy trong tổ chức quyền lực Nhà nước.
Như đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Việt Nga - Phó Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội Thành phố Hải Phòng đã nói rằng: “Một Quốc hội tinh gọn không có nghĩa là làm ít đi, mà là làm đúng hơn, nhanh hơn, dựa trên cơ sở khoa học và thực tiễn. Quốc hội số hóa, minh bạch và phản ứng nhanh chính là hình hài của một nền lập pháp hiện đại đáp ứng sự phát triển của đất nước”.
Với 2 khóa liên tục tham gia Quốc hội (khóa XIV, XV), theo đại biểu Việt Nga, có 3 yếu tố trọng tâm cần được thúc đẩy để nâng cao hiệu quả giám sát, quyết sách và phản ứng chính sách với đời sống thực tiễn.
Thứ nhất, chuyển từ lối làm việc nặng về quy trình, hồ sơ sang mô hình quản trị dựa trên dữ liệu, kết nối thời gian thực với địa phương, với cử tri và với các cơ quan chuyên môn.
Thứ hai, tăng cường phối hợp ngang giữa các Ủy ban Quốc hội, bởi nhiều vấn đề hiện nay mang tính liên ngành như đất đai, đầu tư công, giáo dục, môi trường, an sinh xã hội, nếu xử lý theo tư duy chia cắt thì không thể có chính sách hiệu quả. Cần xây dựng các tổ công tác liên ủy ban có cơ chế chia sẻ dữ liệu, trách nhiệm và kết luận chung.
Thứ ba, đổi mới phương thức giám sát theo hướng thực chứng, đi đến cùng khuyến nghị, có hậu kiểm và chế tài rõ ràng gắn với trách nhiệm giải trình. Giám sát không chỉ dừng lại ở nêu vấn đề, mà phải tạo chuyển động thực sự.
Theo bà Nga, muốn có một nghị trường kiến tạo, chuyên nghiệp và gần dân, yếu tố cốt lõi trước hết phải đến từ từng đại biểu Quốc hội. Đó là khả năng kết nối hai thế giới tưởng như khá xa nhau là đời sống nhân dân với ngôn ngữ chính sách.
“Một đại biểu giỏi không chỉ phản ánh thực tiễn một cách trung thực, mà còn biết “chưng cất” những trăn trở của cử tri thành kiến nghị lập pháp có cơ sở khoa học, có sức nặng thuyết phục”, đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga chia sẻ với Tạp chí Người Đưa Tin.
Nguyên tắc Đảng lãnh đạo toàn diện, trực tiếp mọi mặt trong công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật đã được quy định rõ ràng tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Tính Đảng trong công tác xây dựng pháp luật chính là biểu hiện cụ thể, sinh động của vai trò lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của Đảng đối với hoạt động lập pháp của Quốc hội và việc soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền.
Phải nhắc lại, Quốc hội đã tập trung tháo gỡ cơ bản các điểm nghẽn về thể chế để tạo đột phá phát triển kinh tế - xã hội trong kỷ nguyên mới, đặc biệt là triển khai 4 Nghị quyết chiến lược. Trong đó, Nghị quyết số 66 ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới đã được triển khai thực hiện hơn 6 tháng.
Nghị quyết số 66 đã nhấn mạnh quan điểm: “Xây dựng pháp luật phải bám sát thực tiễn, “đứng trên mảnh đất thực tiễn của Việt Nam”, tiếp thu có chọn lọc giá trị tinh hoa của nhân loại, bảo đảm tính hệ thống, nắm bắt mọi cơ hội, mở đường, khơi thông mọi nguồn lực, đưa thể chế, pháp luật trở thành lợi thế cạnh tranh, nền tảng vững chắc, động lực mạnh mẽ cho phát triển…”.
Theo TS. Nguyễn Sĩ Dũng - nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, Nghị quyết 66 không chỉ là một định hướng về kỹ thuật lập pháp, mà là một bản thiết kế chiến lược để tái cấu trúc nền tảng thể chế quốc gia. Với sự hoàn thiện xây dựng chính sách và thực thi pháp luật, một hệ thống pháp luật hiện đại, khả thi, minh bạch sẽ là lợi thế phát triển đặc biệt quan trọng bệ phóng cho đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển, văn minh và giàu mạnh.
“Khi pháp luật trở thành “đột phá của đột phá”, đó cũng là lúc Nhà nước thực sự trở thành Nhà nước pháp quyền và xã hội phải luôn kỷ cương, sáng tạo và phát triển bền vững”, ông Dũng đánh giá.
Có thể nói, Nghị quyết 66 đang dần biến từ định hướng chiến lược thành hành động cụ thể, là nền tảng pháp lý quan trọng để Quốc hội, Chính phủ và các bộ, ngành triển khai hiệu quả nhiệm vụ lập pháp, giám sát và kiến tạo phát triển trong những năm tới.
Đây là cơ chế quan trọng để bảo đảm rằng những điểm nghẽn đã được phát hiện sẽ được xử lý ngay và triệt để, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho đổi mới sáng tạo, phát triển bền vững, đồng thời đóng góp vào 2 mục tiêu 100 năm mà Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã xác định: Mục tiêu trước mắt năm 2030 là kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng và trở thành một nước đang phát triển công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước, trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển có thu nhập cao.
Là nơi hội tụ trọn vẹn “ý Đảng, lòng dân”, các quyết sách của Quốc hội đã tạo dựng hành lang pháp lý vững chắc, đảm bảo mọi hoạt động trong xã hội vận hành theo trật tự, kỷ cương, đồng thời đề cao tinh thần pháp quyền, thượng tôn pháp luật. Hơn hết, hệ thống pháp luật từ Hiến pháp đến các đạo luật do Quốc hội ban hành không ngừng được hoàn thiện, đi đôi với việc giám sát chặt chẽ việc thực thi chính sách, tất cả đều dựa trên nguyên tắc “ý Đảng, lòng dân”.
Do đó, theo TS. Nguyễn Sĩ Dũng, khi Quốc hội đã xây dựng được hệ thống pháp luật tương đối đầy đủ thì nhiệm vụ của giai đoạn tới là phải làm cho hệ thống ấy trở nên thông minh, linh hoạt và kiến tạo hơn. Khi đó, luật pháp mới thực sự trở thành động lực thúc đẩy phát triển và nuôi dưỡng tinh thần sáng tạo trong cộng đồng doanh nghiệp.
Trên cơ sở này, cải cách ưu tiên nhất trong nhiệm kỳ tới, theo ông Dũng, chính là xây dựng một Quốc hội “chuyên nghiệp - hiện đại - gần dân - kiến tạo”. Khi đạt được mục tiêu này, Quốc hội sẽ tiếp tục khẳng định vai trò là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, xứng đáng với niềm tin và kỳ vọng của nhân dân trong kỷ nguyên mới.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng nhấn mạnh, Quốc hội cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ kỹ thuật lập pháp, tập trung vào các nguyên tắc, khung khổ cơ bản, tránh tình trạng luật quá chi tiết dẫn đến cứng nhắc và gia tăng chi phí tuân thủ. Một hệ thống pháp luật hiện đại, minh bạch, ổn định sẽ là nền tảng vững chắc cho đổi mới sáng tạo và phát triển bền vững. Hơn nữa, trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, cơ hội đi kèm với thách thức, đòi hỏi chất lượng lập pháp phải được nâng lên ngang tầm chuẩn mực quốc tế.
“Điều này không chỉ yêu cầu các đạo luật rõ ràng, minh bạch và dễ dự đoán, mà còn cần tương thích với các cam kết quốc tế, đặc biệt là các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới mà Việt Nam đã tham gia. Khi luật pháp trong nước đồng bộ với thông lệ quốc tế, môi trường kinh doanh mới thực sự trở nên an toàn và hấp dẫn, thu hút đầu tư trong và ngoài nước, đồng thời tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững của đất nước”, TS. Nguyễn Sĩ Dũng nhìn nhận.
Nhờ hệ thống pháp luật ngày càng minh bạch, ổn định và đồng bộ, cùng với việc tháo gỡ những điểm nghẽn trong thể chế, các quyết sách chiến lược của Quốc hội đã được triển khai hiệu quả, tạo ra hành lang pháp lý thông suốt, thúc đẩy mọi hoạt động trong xã hội vận hành theo trật tự, kỷ cương, đồng thời nuôi dưỡng tinh thần pháp quyền và sáng tạo.
Nền tảng pháp luật này không chỉ nâng cao năng lực quản trị quốc gia, mà còn giúp cả hệ thống chính trị và hành chính vận hành đồng bộ, nhịp nhàng từ Trung ương đến địa phương, tạo điều kiện thuận lợi để các quyết sách lớn của Đảng và Nhà nước được hiện thực hóa.
Chính nhờ sự đồng thuận cao trong các cơ quan quyền lực Nhà nước, mọi chính sách và dự luật đều gắn kết chặt chẽ với thực tiễn đời sống, đáp ứng nhu cầu phát triển và kỳ vọng của nhân dân, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để khai thác và vận hành hiệu quả mọi nguồn lực của đất nước. Như Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh tại Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII rằng: Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang chuyển trạng thái từ “vừa chạy vừa xếp hàng” sang “hàng thẳng, lối thông, đồng lòng cùng tiến” vươn tới tương lai.
Từ Trung ương đến 34 tỉnh, thành phố và 3.321 xã, phường, đặc khu, cả hệ thống chính trị và hệ thống hành chính đều đang vận hành theo hướng đổi mới tổ chức bộ máy, nâng cao chất lượng quản trị, điều hành khoa học, hạn chế trung gian, xóa bỏ trùng lắp chức năng, gần dân hơn, sát dân hơn, phục vụ nhân dân tốt hơn. Đây là bước đột phá về tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, thể hiện quyết tâm cao của Đảng trong việc thiết lập một thiết chế quản trị hiện đại, liêm chính, tinh gọn và hướng tới người dân.
Có thể nói, những quyết sách chiến lược được thông qua từ nghị trường Diên Hồng không chỉ là các văn bản pháp luật, mà còn là những “đòn bẩy” tháo gỡ điểm nghẽn, kiến tạo hành lang pháp lý cho mọi hoạt động của xã hội. Những đêm làm việc liên tục trong các ủy ban, các phiên họp chuyên đề đã minh chứng một điều rằng “cải cách thể chế không thể chờ đợi” và luật pháp phải luôn song hành cùng thực tiễn đời sống.
Những đêm trắng với ánh đèn Diên Hồng chưa bao giờ tắt đã để lại dấu ấn của một Quốc hội hành động, kiến tạo và trách nhiệm - nơi ý chí của Đảng, khát vọng của dân và quyết tâm đổi mới thể chế hội tụ, đồng hành cùng các quyết sách của Chính phủ để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới với nền pháp quyền vững chắc, minh bạch, và phát triển bền vững.