Sau 4 năm triển khai, Dự án “Nhân rộng Quản lý rừng bền vững và Chứng chỉ rừng tại Việt Nam” (SFM) do Chính phủ Cộng hòa Liên bang Đức tài trợ, Cơ quan Hợp tác quốc tế Đức (GIZ) phối hợp với Ban Quản lý các Dự án Lâm nghiệp (MBFP) – Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thực hiện tại 3 tỉnh Quảng Trị, Gia Lai và Đắk Lắk đã góp phần thúc đẩy quản lý rừng bền vững, hướng tới mục tiêu hỗ trợ Việt Nam giảm phát thải carbon.
Phóng viên Tạp chí Người Đưa Tin đã có cuộc trao đổi với bà Carina van Weelden – Quản lý Dự án SFM tại Việt Nam – về những kết quả thực tiễn mà dự án mang lại.
PV: Thưa bà, bà đánh giá như thế nào về những kết quả mà Dự án SFM đã đạt được trong thời gian qua?
Bà Carina van Weelden: Ngày 15/9/2025 tại Gia Lai, Dự án SFM khép lại chặng đường 4 năm (2022-2025) với nhiều dấu ấn. Điểm đặc biệt của dự án là kết hợp triển khai thực tiễn tại hiện trường với tư vấn chính sách ở cấp quốc gia.
Trọng tâm dự án là 11 mô hình trình diễn kỹ thuật lâm sinh trên diện tích 42 ha, chứng minh tính khả thi của việc chuyển đổi từ trồng rừng thông thường sang rừng gỗ lớn chất lượng cao. Thành công này đã thuyết phục các chủ rừng mở rộng quy mô từ 42 ha thí điểm lên 2.100 ha.
Kết quả cho thấy mô hình rừng gỗ lớn không chỉ đem lại lợi nhuận kinh tế trung hạn mà còn gia tăng hấp thụ carbon, góp phần giảm thiểu tác động biến đổi khí hậu.
PV: Bà đánh giá các chủ rừng ở Việt Nam tiếp cận và tham gia dự án như thế nào?
Bà Carina van Weelden: Quá trình thực hiện, dự án đã tư vấn và phối hợp với các chủ rừng để thiết kế, xây dựng và chăm sóc các mô hình trình diễn. Đến nay, các mô hình này hình thành và phát triển vững chắc, các chủ rừng đã cam kết quản lý lâu dài thông qua việc huy động nguồn lực tài chính và nhân lực của chính họ.
Bên cạnh các mô hình trình diễn, dự án cũng đã phối hợp với các chủ rừng trong nhiều khía cạnh khác của quản lý rừng bền vững, như: quản lý và phòng trừ sâu bệnh hại, ứng dụng công nghệ số như thiết bị bay không người lái (drone); dự báo rủi ro gió trong quản lý rừng trồng;.... Đặc biệt là xác định cơ chế tài chính để bù đắp khoảng trống khi chuyển đổi từ chu kỳ khai thác ngắn sang dài ngày.
Thành công quan trọng là nâng cao năng lực của các chủ rừng, cán bộ kỹ thuật và người tham gia, tạo tiền đề cho hợp tác hiệu quả và đổi mới.
PV: Thông qua dự án SFM, bà có thể chia sẻ thêm các kinh nghiệm của dự án trong thúc đẩy quản lý rừng bền vững?
Bà Carina van Weelden: Dự án SFM nhằm thúc đẩy quá trình chuyển đổi sang quản lý rừng bền vững với trọng tâm đặc biệt vào sản xuất gỗ xẻ. Trong khuôn khổ dự án, quản lý rừng bền vững được hiểu toàn diện, nhằm duy trì và nâng cao các giá trị kinh tế, xã hội và môi trường của rừng sản xuất, mang lại lợi ích chung cho chủ rừng, cộng đồng lân cận, các bên liên quan khác và cho các thế hệ tương lai.
Cụ thể, quá trình chuyển đổi từng bước sang SFM đòi hỏi việc quản lý lâu dài rừng trồng ngắn ngày, đơn loài (ở Việt Nam chủ yếu là cây keo) sang rừng trồng dài ngày được quản lý bền vững. Các khu rừng này đáp ứng mục tiêu của Chính phủ Việt Nam về sản xuất gỗ lớn cho ngành chế biến trong nước, qua đó nâng cao hiệu quả kinh tế và giá trị sản phẩm. Các mục tiêu khác bao gồm thực hiện trách nhiệm xã hội đối với các hộ trồng rừng nhỏ lẻ và cộng đồng sống gần rừng trồng, đóng góp vào việc gia tăng khả năng hấp thụ và lưu trữ carbon lâu dài.
Mô hình lâm nghiệp ít thâm canh hơn cũng giúp giảm tác động tiêu cực đến môi trường, ví dụ như giảm áp lực lên đất hoặc giảm sử dụng phân bón hoá học, thay bằng phân hữu cơ. Một khía cạnh quan trọng khác của SFM là thúc đẩy trồng rừng hỗn giao, kết hợp giữa loài cây bản địa và loài ngoại lai phù hợp, qua đó nâng cao tính đa dạng sinh học của rừng được quản lý bền vững cũng như khả năng chống chịu của rừng trước sâu bệnh và tác động của biến đổi khí hậu.
Quá trình chuyển đổi sang rừng gỗ lớn được thực hiện thông qua 3 nhóm hoạt động chính: hoàn thiện cơ sở pháp lý và thể chế, tăng cường năng lực và tài chính cho quản lý rừng bền vững. Việc thúc đẩy bình đẳng giới cũng được lồng ghép trong mọi hoạt động của dự án.
PV: Tôi đặc biệt ấn tượng với cách dự án tăng cường vai trò của cộng đồng trong quản lý và bảo vệ rừng thông qua các mô hình cộng đồng – điển hình như mô hình của Công ty TNHH Lâm nghiệp Sông Kôn (Gia Lai) – đồng thời chú trọng trao quyền cho phụ nữ và các nhóm yếu thế, giúp họ cải thiện đời sống. Bà có thể chia sẻ rõ hơn về những hoạt động cụ thể và kết quả đạt được?
Bà Carina van Weelden: Có nhiều bằng chứng cho thấy các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng rừng hoặc giảm thiểu biến đổi khí hậu sẽ hiệu quả và bền vững hơn khi lồng ghép các khía cạnh xã hội và giới. Để đạt được quá trình chuyển đổi sang quản lý rừng bền vững, tất cả các chủ thể đều phải tham gia vào việc nhân rộng trên toàn ngành, bao gồm cả các chủ rừng lớn như công ty và các hộ trồng rừng nhỏ lẻ. Chỉ khi hợp tác mới có thể hình thành năng lực và chuỗi giá trị cần thiết.
Trong khuôn khổ dự án SFM, công tác thúc đẩy bình đẳng giới được đặt lên hàng đầu. Nhóm dự án đã xây dựng “Bộ Hướng dẫn về Bình đẳng giới và Biện pháp bảo đảm xã hội” để định hướng cho các bên liên quan trong quá trình lập kế hoạch và triển khai.
Tại Gia Lai, hai công ty lâm nghiệp đã được hỗ trợ xây dựng kế hoạch hành động về giới, lồng ghép bình đẳng giới vào hoạt động sản xuất – kinh doanh. Thông qua các khóa đào tạo và lập kế hoạch có sự tham gia, cán bộ và nhân viên được nâng cao nhận thức về khái niệm giới. Hiện nay, yếu tố bình đẳng giới đã được đưa vào quy định tuyển dụng và thăng tiến của hai doanh nghiệp này, bảo đảm cơ hội bình đẳng cho cả nam và nữ.
Về tăng cường sự tham gia của cộng đồng, dự án thúc đẩy hợp tác với người dân địa phương trong bảo vệ và quản lý rừng bền vững, tạo lợi ích cho tất cả các bên. Cụ thể, các hoạt động tập trung vào việc nhân rộng mô hình quản lý rừng bền vững trên diện tích của công ty và hộ trồng rừng nhỏ lẻ; chuyển giao kiến thức và kỹ năng quản lý rừng; nâng cao hiệu quả bảo vệ rừng; đảm bảo quyền và điều kiện lao động; xây dựng sự tôn trọng lẫn nhau, củng cố niềm tin và tạo môi trường làm việc hài hòa.
Dựa trên những thành công ban đầu với 3 cộng đồng, mô hình hợp tác cộng đồng đã được nhân rộng thành công. Ngày 14/2/2025, Công ty Lâm nghiệp Sông Kôn đã chính thức ký kết thỏa thuận hợp tác với 7 cộng đồng nữa, nâng tổng số lên 10 cộng đồng với hơn 700 hộ gia đình tham gia.
PV: Sau khi dự án SFM kết thúc, GIZ có dự định tiếp tục hợp tác với các đối tác để triển khai những dự án tương tự tại Việt Nam không?
Bà Carina van Weelden: Các vấn đề toàn cầu như biến đổi khí hậu, mất đa dạng sinh học không thể do một quốc gia giải quyết, cần hợp tác chung để bảo vệ rừng cho thế hệ hiện tại và tương lai.
Năm 2025 đánh dấu 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam – Đức. Trải qua hơn 30 năm hợp tác trong lĩnh vực lâm nghiệp, hai bên đã triển khai nhiều dự án thành công. Dù dự án SFM đã khép lại, các kết quả đạt được vẫn tiếp tục đóng góp cho quản lý rừng bền vững; Hợp tác Phát triển Đức sẽ tiếp tục phổ biến kiến thức và công cụ mà dự án tạo ra.
Những bằng chứng và khuyến nghị từ hợp tác Việt – Đức đã được lồng ghép vào chính sách quốc gia, góp phần thực hiện Chiến lược Phát triển Lâm nghiệp 2021 – 2030 và cam kết phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Theo thỏa thuận hợp tác ký năm 2023, lâm nghiệp vẫn là lĩnh vực ưu tiên, bao gồm quản lý rừng bền vững, bảo vệ rừng và phát triển chuỗi giá trị gỗ hợp pháp.
Năm nay, một dự án mới nâng cao quản lý các khu bảo tồn rừng đang được khởi động, kế thừa và phát huy kết quả từ SFM và các hoạt động hợp tác trước đó.
Xin cảm ơn bà về cuộc trò chuyện này. Chúc bà sức khỏe và luôn thành công trong các dự án sắp tới!