Ông Nguyễn Hoàng Giang – Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi nhấn mạnh như trên khi trao đổi riêng với Người Đưa Tin về bức tranh kinh tế xã hội của tỉnh sau hợp nhất, cơ hội, tiềm năng phát triển; chính sách thu hút đầu tư, phát triển hạ tầng...
Người Đưa Tin (NĐT): Thưa Chủ tịch, đâu là những thế mạnh nổi bật của Quảng Ngãi sau sáp nhập?
Ông Nguyễn Hoàng Giang: Quảng Ngãi sở hữu cả không gian ven biển ở phía Đông (cảng biển nước sâu Dung Quất) và cao nguyên ở phía Tây, đồng thời tỉnh Quảng Ngãi thuộc khu vực miền Trung, giữa 02 đầu Bắc - Nam của đất nước nên có vị trí chiến lược quan trọng cả về phát triển kinh tế và bảo đảm an ninh quốc phòng, an ninh quốc gia.
Việc hợp nhất hai tỉnh đã mang lại cho Quảng Ngãi mới nhiều lợi thế lớn, mở rộng không gian tỉnh (gần 15.000 km² sau hợp nhất), với sự kết hợp hài hòa giữa vùng cao nguyên giàu tài nguyên rừng và vùng ven biển mạnh về kinh tế biển, đa dạng văn hóa... mang lại nhiều cơ hội cho tỉnh để phát triển bền vững. Trong đó, nổi bật là sự kết hợp giữa-rừng, phát triển kinh tế biển - logistics - công nghiệp liên vùng sẽ tạo nên một Quảng Ngãi mới đa dạng, phong phú, mang lại nhiều cơ hội lớn cho việc phát triển bền vững, giúp tỉnh Quảng Ngãi trở thành cực tăng trưởng mới của miền Trung - Tây nguyên, với lợi thế kép "tựa sơn hướng thủy".
Trong đó, tập trung thúc đẩy bứt phá kinh tế liên kết vùng, gắn với xây dựng chuỗi giá trị toàn diện, kết nối lâm nghiệp cao nguyên (sâm Ngọc Linh, cà phê, cao su,…) với công nghiệp, kinh tế biển (lọc dầu, cảng nước sâu, du lịch,…) và với dịch vụ logistics (cảng biển, cửa khẩu, đường cao tốc, đường sắt tốc độ cao,…) thúc đẩy chế biến, xuất khẩu và thu hút đầu tư.
Xây dựng hình thành Trung tâm lọc hóa dầu và năng lượng quốc gia tại Khu kinh tế Dung Quất; mở rộng KKT Dung Quất, Khu kinh tế của khẩu Bờ Y, tăng tỷ lệ lấp đầy các khu công nghiệp và thu hút đầu tư vào các lĩnh vực công nghệ cao và năng lượng sạch. Kêu gọi đầu tư vào chế biến sâu sâm Ngọc Linh, nông sản và năng lượng tái tạo, với mục tiêu gia tăng giá trị và tạo chuỗi sản xuất.
Với cơ hội và lợi thế vượt trội của tỉnh, cùng với việc duy trì sự đoàn kết, thống nhất, đổi mới quản trị với công nghệ số và sự tham gia của nhân dân, tỉnh Quảng Ngãi mới sẽ phát triển mạnh mẽ, với tiềm năng trở thành Trung tâm kinh tế động lực vùng, hỗ trợ cho hành lang Đông - Tây kết nối với các nước Lào, Campuchia, Thái lan và các nước trong khu vực, góp phần vào sự thịnh vượng chung của đất nước.
Đặc biệt, Quảng Ngãi có 2 Khu kinh tế nằm trong tuyến Hành lang kinh tế Đông - Tây là Khu kinh tế Dung Quất và Khu kinh tế Cửa khẩu quốc tế Bờ Y, nơi giao thương hàng hóa thuận lợi với Lào và Campuchia bằng đường bộ. Song song với đó, hạ tầng giao thông ở tỉnh Quảng Ngãi cũng phát triển, có Quốc lộ 1A, Quốc lộ 24, cao tốc Bắc – Nam, đường sắt, đường biển và gần Sân bay Chu Lai (thành phố Đà Nẵng) nên kết nối vùng, liên vùng, kết nối với Tây Nguyên, sang Lào và Campuchia thông qua cửa khẩu Bờ Y và quốc tế thông qua cảng Dung Quất rất thuận tiện.
NĐT: Tiềm năng, lợi thế này đã và đang được Quảng Ngãi hiện thực hóa trong các chiến lược quy hoạch, quyết sách của tỉnh ra sao, thưa Chủ tịch?
Ông Nguyễn Hoàng Giang: Ngay từ đầu sáp nhập, tỉnh đã ưu tiên tập trung các giải pháp đồng bộ để phát sinh hiệu quả các nguồn lực. Cụ thể: thứ nhất, đẩy nhanh tiến độ xây dựng các dự án giao thông trọng điểm như cao tốc Quảng Ngãi - Kon Tum, nâng cấp Quốc lộ 24 kết nối với Cửa khẩu Bờ Y và phát triển cảng biển Dung Quất để kết nối sản xuất, phát triển dịch vụ logistics và xuất nhập khẩu.
Thứ 2, tiếp tục đầu tư phát triển sân bay Măng Đen, Lý Sơn và các tuyến đường cao tốc liên kết Tây nguyên để tăng cường kết nối quốc tế qua Cửa khẩu Bờ Y và nội vùng.
Thứ 3, từng bước hình thành mô hình kinh tế liên kết giữa miền núi (cao nguyên Kon Tum cũ với rừng đầu nguồn, dược liệu,…), đồng bằng (vùng trung tâm với nông nghiệp, công nghiệp nhẹ) và biển đảo (ven biển Dung Quất - Lý Sơn với dầu khí, logistics và du lịch,…), nhằm tạo chuỗi giá trị khép kín.
NĐT: Bên cạnh thuận lợi, tỉnh Quảng Ngãi sau hợp nhất cũng có những khó khăn nhất định, tỉnh nhận diện và có các giải pháp nào để khắc phục, vượt khó phát triển bền vững?
Ông Nguyễn Hoàng Giang: Thực tế bên cạnh cơ hội, tỉnh nhận diện không ít thách thức trong quản trị và điều hành. Nổi bật, thứ nhất về quản lý hành chính và khoảng cách địa lý. Địa bàn rộng lớn, địa hình đồi núi cao nguyên và ven biển cách xa nhau, có thể gây khó khăn trong điều hành, vận hành bộ máy và cung cấp dịch vụ công. Tỉnh sẽ nghiên cứu điều chỉnh Quy hoạch tỉnh, sắp xếp không gian, đầu tư kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội, đặc biệt là giao thông kết nối để rút ngắn khoảng cách; kiện toàn tổ chức, cơ sở vật chất và ổn định cán bộ...
Hai là, nguồn lực đầu tư còn hạn chế, và việc phân bổ nguồn lực giữa các khu vực để tránh bất bình đẳng cũng là một thách thức. Ba là, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững: Khai thác rừng (dược liệu, lâm sản,…) và biển (dầu khí, đánh bắt hải sản,…) dễ dẫn đến xung đột lợi ích, như suy thoái rừng đầu nguồn ảnh hưởng nguồn nước ven biển, hoặc ô nhiễm từ công nghiệp; biến đổi khí hậu (mưa lũ cao nguyên, bão biển) đòi hỏi chính sách xanh, nhưng nguồn lực hạn chế có thể làm chậm tiến độ. Bốn là, công bằng xã hội và văn hóa, như sự chênh lệch giữa vùng cao (dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ cao, kinh tế nông nghiệp chủ đạo) và vùng biển (công nghiệp hóa mạnh)...
Cả hệ thống chính trị tỉnh nỗ lực để khắc phục khó khăn, thách thức, dựa trên nguyên tắc "đa trung tâm, đa động lực", kết nối chuỗi giá trị từ sản xuất nguyên liệu (rừng núi) đến chế biến (đồng bằng) và xuất khẩu (biển đảo), đảm bảo lợi ích lan tỏa công bằng giữa các vùng.
NĐT: Hạ tầng, đặc biệt giao thông kết nối sẽ thu hẹp khoảng cách, kéo rừng và biển gần nhau, xin Chủ tịch cho biết, hiện trạng bức tranh giao thông và những giải pháp đột phá trong thời gian tới của tỉnh?
Ông Nguyễn Hoàng Giang: Thời gian qua, tỉnh nỗ lực đầu tư, nâng cấp hạ tầng, hệ thống giao thông đáp ứng yêu cầu và từng bước hoàn thiện mạng lưới giao thông theo Quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021 -2030 tầm nhìn đến năm 2050 đã được phê duyệt, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, giữ vững an ninh, quốc phòng. Tuy nhiên, hiện nay việc kết nối, lưu thông từ miền ngược xuống miền xuôi và ngược lại còn gặp khó khăn do "nút thắt" Quốc lộ 24 là tuyến giao thông duy nhất kết nối từ tỉnh Quảng Ngãi (cũ) và Kon Tum (cũ) chưa được nâng cấp đồng bộ, nhiều đoạn hư hỏng, nhất là đoạn qua đèo Viôlăk, làm kéo dài thời gian di chuyển, tiềm ẩn nhiều nguy cơ xảy ra tai nạn giao thông.
Vừa qua, tỉnh kiến nghị các Bộ Tài chính, Xây dựng xem xét, báo cáo Thủ tướng Chính phủ thống nhất hỗ trợ 2.350 tỷ đồng từ nguồn ngân sách Trung ương để nâng cấp, mở rộng quốc lộ này. Bên cạnh đó, đẩy nhanh tiến độ chuẩn cùng với đầu tư xây dựng cao tốc Quảng Ngãi - Kon Tum, cùng với việc phât triển mạng lưới giao thông đối nội, đối ngoại, đường cao tốc, đường sắt tốc độ cao... sẽ đáp ứng được nhu cầu kết nối, lưu thông kinh tế theo cả chiều dọc và chiều ngang từ Kon Tum về cảng Dung Quất, kết nối 2 khu kinh tế Bờ Y và Khu kinh tế Dung Quất.
NĐT: Ngoài ra phải kể đến hệ thống cảng biển đang là thế mạnh của Quảng Ngãi trong việc phát triển hàng hóa, các trung tâm logistics, cụm công nghiệp, kho bãi dọc hành lang Đông - Tây?
Ông Nguyễn Hoàng Giang: Cảng Dung Quất là cảng nước sâu, khả năng tiếp nhận tàu có trọng tải đến 200.000 tấn và nằm trong hệ cảng biển miền Trung. Cảng Dung Quất có lưu lượng hàng hóa thông qua cảng lớn, giữ vai trò chủ yếu, quan trọng phục vụ nhu cầu phát triển sản xuất và xuất nhập khẩu hàng hóa của Khu kinh tế Dung Quất và các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh như: Lọc hóa dầu, luyện thép, cơ khí công nghiệp nặng, dệt may da giày, nông lâm thủy sản chế biến, máy móc thiết bị thay thế,…
Hiện nay, không gian thị trường, hàng hóa và nguồn lực của tỉnh Quảng Ngãi được mở rộng lên Tây nguyên; cảng Dung Quất tiếp tục khẳng định vai trò chủ yếu, quan trọng trong phát triển kinh tế tỉnh Quảng Ngãi, không những phục vụ tốt cho nhu cầu hoạt động sản xuất, xuất nhập khẩu hàng hóa của Khu kinh tế Dung Quất và các khu công nghiệp tỉnh như trước đây mà còn phục vụ cho giao thương hàng hóa của Cửa khẩu quốc tế Bờ Y, nhu cầu xuất khẩu hàng hóa nông sản, khoáng sản, hàng rời từ Tây nguyên, gắn với hệ thống hạ tầng giao thông kết nối vùng, liên vùng, quốc tế và các trung tâm logistics, kho bãi lưu giữ, bảo quản hàng hóa.
Do đó, tỉnh đang tập trung phối hợp với các bộ, ngành Trung ương để triển khai quy hoạch và thu hút đầu tư phát triển hệ thống cảng biển Dung Quất theo đúng định hướng tại Quy hoạch phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 140/QĐ-TTg ngày 16/01/2025. Trong đó, cảng Dung Quất được xác định là cảng tổng hợp quốc gia, đầu mối khu vực (loại I), thuộc nhóm cảng biển số 3, đóng vai trò rất quan trọng đối với miền Trung - Tây nguyên.
Trên thực tế, tại khu vực cảng Dung Quất hiện đã có nhiều bến cảng chuyên dụng và tổng hợp được đầu tư. Hiện nay, đã hình thành phát triển và đưa vào sử dụng 05 hệ thống bến cảng tổng hợp có khả năng tiếp nhận tàu có tải trọng 70.000DWT; 05 hệ thống bến cảng chuyên dùng có khả năng tiếp nhận tàu có tải trọng 200.000DWT. Trong đó, Tập đoàn Hòa Phát đang triển khai xây dựng bến cảng tổng hợp - container Hòa Phát Dung Quất, với khả năng tiếp nhận tàu có trọng tải lớn, phục vụ cả nhu cầu xuất nhập hàng hóa ngoài lĩnh vực gang thép, đã đưa vào hoạt động bến số 6 và 7, bến số 8 đang tiếp tục xây dựng. Bên cạnh đó, tại khu vực cảng Dung Quất 1, đã có nhà đầu tư đang nghiên cứu đầu tư xây dựng cảng tổng hợp tại bến số 4, 5 trong hệ thống bến cảng Dung Quất 1.
Bên cạnh đó, tỉnh đã đưa vào quy hoạch Trung tâm logistics tại Khu kinh tế Dung Quất, hướng đến mục tiêu phát triển dịch vụ vận tải đa phương thức, kết nối đường bộ, đường sắt, cảng biển và mở rộng liên vận quốc tế.
Về lâu dài, tỉnh Quảng Ngãi định hướng phát triển cảng Dung Quất trở thành cảng cửa ngõ khu vực miền Trung, gắn với trung tâm lọc hóa dầu và năng lượng quốc gia, các tổ hợp công nghiệp nặng, công nghiệp chế biến sâu, và trung tâm logistics hiện đại, nhằm đóng vai trò trung chuyển hàng hóa quốc tế trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
NĐT: Hạ tầng tạo đòn bẩy cho tỉnh phát triển, Quảng Ngãi có các chính sách đột phá gì để thu hút đầu tư để tạo đà tăng trưởng bền vững cho tỉnh, thưa Chủ tịch?
Ông Nguyễn Hoàng Giang: Với địa bàn được mở rộng, Quảng Ngãi sẽ nhận được sự quan tâm rất tích cực, ngày càng lớn của các nhà đầu tư trong và ngoài nước, nhất là đối với hạ tầng logistics và công nghiệp. Đây cũng là tiền đề quan trọng để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội bền vững, nâng cao vị thế của tỉnh trong chuỗi giá trị công nghiệp và logistics.
Bên cạnh đó, tỉnh xác định thu hút đầu tư là một trong những ưu tiên hàng đầu của tỉnh sau hợp nhất với Kon Tum với phương châm “Quảng Ngãi luôn đồng hành, hỗ trợ doanh nghiệp” và tạo điều kiện để doanh nghiệp sớm gia nhập thị trường, tận dụng ưu thế từ hạ tầng tới cơ chế chính sách của tỉnh. Như tăng cường cơ chế xúc tiến và thu hút đầu tư, xây dựng đề án phát triển kinh tế đa trung tâm, với chính sách ưu đãi riêng cho dự án liên kết vùng (rừng - biển), như miễn giảm tiền thuê đất cho đầu tư vào nông nghiệp, công nghiệp, dược liệu, du lịch và logistics.
Thứ hai, ưu đãi và hỗ trợ doanh nghiệp: Tiếp tục đẩy mạnh cải cách theo Nghị quyết "bộ tứ trụ cột", nâng cao Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh. Hỗ trợ doanh nghiệp qua "một cửa" điện tử, giảm thủ tục đầu tư và đồng hành từ khâu khảo sát đến vận hành. Áp dụng chính sách bứt phá như miễn thuế nhập khẩu thiết bị cho dự án công nghệ cao tại Khu kinh tế, các Khu công nghiệp tỉnh và Khu công nghiệp VSIP Quảng Ngãi. Đào tạo lao động miễn phí cho doanh nghiệp đầu tư vào vùng cao nguyên (dân tộc thiểu số), kết hợp chính sách xanh như ưu đãi cho dự án năng lượng tái tạo và bảo vệ môi trường.
Thứ ba, đầu tư hạ tầng và liên kết vùng như phân tích ở trên. Ngoài ra, tỉnh sẽ tiếp tục nghiên cứu trình Trung ương một số cơ chế, chính sách đặc thù áp dụng cho từng khu vực như: Bờ Y, Măng Đen, Lý Sơn và Khu kinh tế Dung Quất nhằm tạo môi trường đầu tư "thảm đỏ", đảm bảo cho tăng trưởng kinh tế địa phương, góp phần giảm nghèo và phát triển công bằng giữa các vùng.
NĐT: Xin Chủ tịch chia sẻ về những mục tiêu, kỳ vọng phát triển Quảng Ngãi đến năm 2030?
Ông Nguyễn Hoàng Giang: Với tinh thần đoàn kết, đồng lòng quyết tâm của cả hệ thống chính trị, nhân dân, sự hỗ trợ của trung ương, Quảng Ngãi đặt mục tiêu thứ nhất, đóng vai trò là trung tâm công nghiệp hỗ trợ và lọc hóa dầu: đáp ứng toàn bộ nhu cầu xăng dầu cho miền Trung - Tây nguyên và ít nhất 30% nhu cầu cả nước vào năm 2030.
Thứ hai, vai trò là trung chuyển logistics và cảng biển, xây dựng mạng lưới logistics đa chiều, trở thành trung tâm trung chuyển hàng hóa chiến lược giữa Tây nguyên, duyên hải miền Trung và các nước tiểu vùng Mekong.
Thứ ba, vai trò là trung tâm liên kết vùng và phát triển kinh tế tổng hợp: Quảng Ngãi hướng tới mô hình phát triển kinh tế tổng hợp, kết hợp công nghiệp, du lịch, dịch vụ, và nông nghiệp công nghệ cao.
Thứ tư, cam kết hỗ trợ đầu tư và cải cách hành chính. Tỉnh Quảng Ngãi cam kết đồng hành và hỗ trợ tối đa cho các nhà đầu tư Với những lợi thế vượt trội và sự cam kết mạnh mẽ từ chính quyền địa phương, Quảng Ngãi đang là điểm đến đầu tư chiến lược, mở ra nhiều cơ hội phát triển cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Thông điệp của tỉnh Quảng Ngãi rất rõ: Đến Quảng Ngãi hôm nay - là nắm bắt cơ hội của ngày mai.
NĐT: Trân trọng cảm ơn Chủ tịch