“Tư bản thân hữu” là khái niệm không mới trong lý luận chính trị - kinh tế, nhưng đang đặt ra những vấn đề mới trong thực tiễn phát triển của Việt Nam. Khi sự thành bại của doanh nghiệp bị lệ thuộc vào ơn huệ, ưu đãi của những người có chức, có quyền, khi doanh nghiệp không lớn lên bằng năng lực cạnh tranh mà bằng quan hệ, khi quyền lực bị biến thành vốn liếng kinh doanh, khi sự ưu ái trá hình thay thế cho minh bạch trong chính sách. Không gì khác, đó chính là mảnh đất để tham nhũng, lợi ích nhóm và sự tha hóa quyền lực sinh sôi.
Đặt trong tổng thể cuộc chiến chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam hiện nay, nhận diện và từng bước loại bỏ biểu hiện tư bản thân hữu không chỉ là điều kiện tiên quyết để xây dựng một nền kinh tế lành mạnh, bình đẳng, phát triển bền vững, mà còn là nhiệm vụ cấp bách liên quan đến sự tồn vong của chế độ.
Tư bản thân hữu không phải là một giai đoạn của chủ nghĩa tư bản, mà là một hiện tượng, một khuyết tật, một sự tha hóa của chủ nghĩa tư bản. Đặc trưng của “chủ nghĩa tư bản thân hữu” là có sự cấu kết, xâm nhập lẫn nhau giữa nhóm đặc quyền kinh tế và nhóm đặc quyền chính trị, người kinh doanh cũng đầu tư vào quyền lực và người có quyền lực cũng tham gia kinh doanh, làm quan chức để làm giàu, họ cùng nhau bóc lột “mềm” toàn xã hội, bóc lột cả dân tộc, họ thâu tóm các nguồn tài chính, của cải và thâu tóm quyền lực chính trị, biến bộ máy nhà nước thành công cụ của một nhóm người (nhân danh nhà nước và đảng cầm quyền) thực hiện độc quyền kinh tế kết hợp với độc quyền chính trị [1].
Dù vậy, “chủ nghĩa tư bản thân hữu” không chỉ là hiện tượng tồn tại trong các xã hội tư bản yếu kém và tha hóa, mà còn có thể xuất hiện trong các xã hội khác, đặc biệt, ở những quốc gia đang chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, khi thể chế chưa hoàn thiện, “lợi ích nhóm”, “quan hệ thân hữu vì lợi ích”, “nhóm lợi ích” dễ nảy sinh và lũng đoạn. Khi đảng cầm quyền và bộ máy nhà nước có biểu hiện suy thoái về đạo đức, tham nhũng trở nên phổ biến, pháp luật không được tuân thủ nghiêm minh, thì các mầm mống của tư bản thân hữu càng có cơ hội phát triển mạnh mẽ.
Ở Việt Nam, dù chưa diễn biến ở mức độ chệch hướng sang chủ nghĩa tư bản thân hữu, song đã bắt đầu nhen nhóm một số mầm mống nguy hiểm. Trước hết, về mặt nhận thức, có một thực tế là hầu hết giới doanh nghiệp tại Việt Nam đều hiểu rằng, xây dựng mối quan hệ với các quan chức là rất quan trọng để có thể làm ăn dễ dàng. Rất nhiều doanh nghiệp coi đây không chỉ là một sự cần thiết, mà còn là một cách đầu tư sinh lợi hiệu quả. Không chỉ tác động đến trực tiếp quan chức, nhiều doanh nghiệp còn tấn công qua "cửa sau" là vợ, con của quan chức để tạo sự thân tình, được hưởng mối quan hệ thân hữu.
Mặt khác, quan hệ thân hữu còn được hình thành theo cách tự nhiên nữa là người nhà của cán bộ đứng ra thành lập doanh nghiệp. Họ kinh doanh nhờ mối quan hệ mà không cần phải đầu tư trí, lực. Những doanh nghiệp này chẳng cần nhiều vốn, chẳng cần nhiều kiến thức, kỹ năng kinh doanh, chỉ cần đón lõng và hiểu "phép chia" đối với công lao những người giúp mình có được dự án là thành công [2].
Chính mối quan hệ lệch chuẩn này là nguyên nhân khiến một số cán bộ, đảng viên có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng vị trí công tác để “bắt tay” với doanh nghiệp, hình thành các “liên minh ma quỷ”, thao túng chính sách, trục lợi thông qua các dự án đầu tư, đấu thầu, khai thác tài nguyên và chuyển nhượng đất đai. Từ đó, xuất hiện ngày càng nhiều loại hình doanh nghiệp được gọi là “sân sau” được ưu ái trong tiếp cận dự án, nguồn lực, chính sách, làm méo mó nguyên tắc bình đẳng trong cạnh tranh. Thậm chí, còn xuất hiện những doanh nghiệp tìm cách tác động và làm méo mó quá trình xây dựng, ban hành và thực hiện chính sách như cơ chế tiếp cận vốn, đất đai, điều kiện sản xuất, kinh doanh, xuất - nhập khẩu… Như Tổng Bí thư Tô Lâm từng cảnh báo: "Dấu hiệu bị tác động, lợi ích nhóm trong quá trình xây dựng, thẩm định các văn bản pháp luật là đáng lo ngại, gây ra thiệt hại, thậm chí tạo khúc quanh đối với phát triển" (Phát biểu tại cuộc làm việc với Ban cán sự Đảng Bộ Tư pháp sáng 7/11/2024).
Mặt khác, nếu suy xét kỹ từ các đại án tham nhũng có màu sắc “thân hữu” thời gian qua, phải thừa nhận rằng có những doanh nghiệp làm sai nhưng cốt lõi của các vụ án vẫn nằm ở nhận thức và thái độ, hành vi của các quan chức. Nếu cán bộ, công chức hiểu rõ trách nhiệm và quyền hạn theo quy định của pháp luật, tỉnh táo, không bị cám dỗ, không muốn hoặc không dám tiêu cực thì không ai ép được họ lạm quyền, trục lợi. Nếu những công chức, lãnh đạo không luồn lách, làm trái quy định của pháp luật để “thân hữu” với doanh nghiệp thì sẽ không có hiện tượng thông đồng nhau bắt tay doanh nghiệp. Khi những cán bộ, đảng viên đã suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” thì hệ lụy tất yếu là sinh ra nạn tham nhũng, tiêu cực, trong đó có biểu hiện thân hữu.
Hàng loạt đại án tham nhũng thời gian qua là minh chứng rõ nét cho sự câu kết giữa quan chức và doanh nghiệp, sự xuất hiện của các doanh nghiệp “sân sau” công khai chiếm thị phần, sự thiên vị của chính quyền đối với các doanh nghiệp thân hữu trong việc cung cấp tài chính, giấy phép, các khoản miễn, giảm thuế và các hình thức can thiệp khác. Từ vụ Nguyễn Đức Chung - cựu Chủ tịch UBND Tp.Hà Nội đã lộng quyền, bảo kê cho nhiều doanh nghiệp sân sau; vụ Nguyễn Thị Thanh Nhàn - Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Tiến bộ Quốc tế (AIC) đã cùng đồng bọn bắt tay, thao túng một bộ phận không nhỏ của hệ thống chính quyền để có được những gói thầu vô cùng béo bở; vụ Việt - Á với tác động sâu rộng tới không chỉ hệ thống y tế đã phản ánh những đặc quyền mà chỉ doanh nghiệp này có được đến từ quan chức các cấp trong đại dịch Covid-19, hay vụ “chuyến bay giải cứu” chấn động với 54 bị cáo bị đưa ra xét xử, trong đó có 21 cựu quan chức các bộ, ngành và 2 địa phương bị cáo buộc nhận hối lộ 515 lần với 165 tỷ đồng từ doanh nghiệp, người dân trong cơn hoạn nạn của cả dân tộc; vụ Công ty Cổ phần Tập đoàn Phúc Sơn, Công ty Cổ phần Tập đoàn Thuận An làm rung động hệ thống chính trị với việc tha hóa nhiều cán bộ ở cấp cao, lũng đoạn bộ máy chính quyền của hai tỉnh Quảng Ngãi và Vĩnh Phúc, nhiều quan chức chủ chốt của hai địa phương này lần lượt sa lưới pháp luật...
Ngay từ năm 2017, khi những đại án nêu trên còn chưa làm rúng động dư luận thì Nghị quyết số 10-NQ/TW Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đã thắng thắn nhìn nhận về sự “xuất hiện những quan hệ không lành mạnh giữa các doanh nghiệp của tư nhân và cơ quan quản lý Nhà nước, can thiệp vào quá trình xây dựng, thực thi chính sách để có đặc quyền, đặc lợi, hình thành “lợi ích nhóm”, gây hậu quả xấu về kinh tế - xã hội, làm suy giảm lòng tin của nhân dân” [3]. Trên cơ sở đó, Nghị quyết đặt ra yêu cầu phải “phòng, chống mọi biểu hiện của “chủ nghĩa tư bản thân hữu”, quan hệ “lợi ích nhóm”, thao túng chính sách, cạnh tranh không lành mạnh để trục lợi bất chính”.
Từ sự nhận diện trên, Đảng, Nhà nước đã có nhiều nỗ lực phòng, chống các biểu hiện của “chủ nghĩa tư bản thân hữu” và mang lại những kết quả tích cực. Theo Báo cáo chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) thường niên của VCCI, chỉ tiêu đo lường về doanh nghiệp “thân hữu” – tỉ lệ doanh nghiệp đồng ý với nhận định “Hợp đồng, đất đai và các nguồn lực kinh tế khác chủ yếu rơi vào tay các doanh nghiệp có liên kết chặt chẽ với chính quyền tỉnh” đã giảm liên tục từ con số 61,1% năm 2021 xuống mức 57,7% năm 2022 và 55,3% năm 2023 [4]. Nếu nhìn vào con số 96,6% khi lần đầu tiên đo lường chỉ tiêu này vào năm 2013, thì con số 55,3% của năm 2023 là thực sự ấn tượng, cho thấy tình trạng doanh nghiệp sân sau đã giảm đi khá nhiều, song đây đây vẫn là vấn đề lớn nhất đối với sự phát triển lành mạnh của cộng đồng doanh nghiệp.
Tư bản thân hữu mà trước hết là cách làm ăn dựa vào quan hệ thân hữu đang để lại những hậu quả hết sức nặng nề cho đất nước, đồng thời sẽ còn tiếp tục tạo ra những nguy cơ, những rủi ro chưa thể lường hết trên nhiều tầng nấc của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội.
Trước hết, nó làm méo mó cơ chế thị trường lành mạnh. Khi quan hệ cá nhân, sự thân quen với quan chức hoặc các nhóm lợi ích trở thành “giấy thông hành” cho các quyết định kinh tế, thì nguyên tắc cạnh tranh công bằng - vốn là nền tảng của kinh tế thị trường lành mạnh, sẽ bị phá vỡ. Một nhóm nhỏ những doanh nghiệp có “quan hệ” sẽ được ưu ái trong việc tiếp cận các nguồn lực của đất nước bao gồm đất đai, tài nguyên, tiếp cận hợp đồng, thông tin…. Trong khi đó, phần lớn các doanh nghiệp làm ăn chân chính, minh bạch lại chịu thiệt thòi. Điều này không chỉ làm suy giảm hiệu quả của nền kinh tế, mà còn tạo ra một môi trường kinh doanh bất bình đẳng, làm suy giảm niềm tin những nhà đầu tư chân chính. Theo báo cáo của VCCI, đến năm 2024, vẫn còn đến 31% doanh nghiệp cho rằng “cần có mối quan hệ” để tiếp cận tài liệu quy hoạch và pháp lý của các tỉnh, dù đã giảm mạnh so với các năm trước đó nhưng cũng cho thấy lời kêu gọi về việc tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng, minh bạch thực sự cần thiết.
Thứ hai, chủ nghĩa tư bản thân hữu làm giảm khả năng ban hành các quy định pháp luật phù hợp với nguyên tắc quản lý kinh tế bình đẳng, lành mạnh. Những nhóm lợi ích khi thao túng được quyền lực sẽ có khả năng tác động đến việc ban hành các chính sách, luật pháp theo hướng “đo ni đóng giày” cho mình. Các quy định ưu đãi về thuế, quy hoạch, đất đai, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước… bị lợi dụng để phục vụ cho mục tiêu trục lợi, thay vì phục vụ sự phát triển bền vững của đất nước. Đó là một loại tham nhũng chính sách. Các nghiên cứu cho thấy, tham nhũng chính sách chính là những kẻ giết chết nền kinh tế một cách thầm lặng nhất.
Thứ ba, chủ nghĩa tư bản thân hữu làm suy giảm lòng tin của nhân dân vào thể chế và công cuộc đổi mới. Khi người dân chứng kiến những dự án đầu tư công đội vốn hàng chục nghìn tỷ đồng, những khu “đất vàng” rơi vào tay một nhóm người nhất định với giá rẻ mạt, hay những vụ cổ phần hóa biến doanh nghiệp nhà nước thành tài sản của một vài cá nhân có “liên hệ đặc biệt” với người có quyền, thì niềm tin vào sự liêm chính và công bằng của bộ máy nhà nước sẽ bị tổn thương nghiêm trọng. Nếu mọi cơ hội đều do một nhóm thâu tóm thì sẽ còn lại gì cho những người làm ăn chân chính? Điều này đi ngược với những giá trị về bình đẳng và công bằng xã hội mà chúng ta đang dày công xây dựng [5].
Thứ tư, chủ nghĩa tư bản thân hữu còn là mảnh đất màu mỡ cho tham nhũng, tiêu cực nảy nở. Khi lợi ích chính trị và kinh tế bị trộn lẫn, và được che chắn bởi vỏ bọc của quyền lực, thì hành vi vi phạm pháp luật có xu hướng bị bỏ qua, xử lý nửa vời hoặc chìm xuồng. Đây chính là một trong những rào cản lớn nhất đối với công cuộc phòng chống tham nhũng, tiêu cực.
Nghiêm trọng hơn, chủ nghĩa tư bản thân hữu không bao giờ dừng lại ở một quy mô nào đó mà luôn ẩn chứa một khuynh hướng phát triển mang tính hệ thống. Nếu chính quyền thiếu khả năng hoặc thỏa hiệp thì chủ nghĩa tư bản thân hữu phát triển giống như hệ sinh thái... làm kìm hãm sự phát triển của quốc gia, làm cho đất nước rơi vào “bẫy thu nhập trung bình” hàng thế kỷ không ra được, gây nên các khuyết tật của nền kinh tế và của xã hội, để hậu quả lâu dài [6]. Nhìn lại lịch sử, chính chủ nghĩa tư bản thân hữu đã gây ra cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 làm cho xã hội ở Thái Lan bị mất ổn định nghiêm trọng, còn chính quyền Indonesia dưới chế độ Suharto thì sụp đổ.
Lâu nay Đảng ta đã nhiều lần lưu ý nguy cơ chệch hướng. Và rõ ràng những mầm mống hiện nay đang cho thấy một trong những nguy cơ chệch hướng hiện hữu nhất và cũng nguy hiểm nhất là chệch hướng sang chủ nghĩa tư bản thân hữu, con đường nguy hại cho sự phát triển của quốc gia, dân tộc, đồng thời cũng nguy hại cho chế độ chính trị - xã hội. Mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa rõ ràng không phải và không thể là một nền kinh tế mà trong đó chỉ một phần trăm nhỏ những người giàu có và quyền lực nhất nhưng lại thâu tóm phần lớn của cải trong một quốc gia.
Đặc biệt, để “kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia” như tinh thần của Nghị quyết 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân, nhất thiết phải bảo đảm quyền cạnh tranh bình đẳng của các doanh nghiệp trong tiếp cận cơ hội kinh doanh và các nguồn lực của nền kinh tế. Bởi chỉ khi cơ hội là bình đẳng trong một môi trường lành mạnh, thông thoáng, minh bạch thì mới có khả năng giải phóng nguồn lực xã hội, thực sự thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp sáng tạo, chuyển đổi số và làm giàu hợp pháp, chính đáng của người dân.
Do đó, phải coi việc đấu tranh ngăn chặn chủ nghĩa tư bản thân hữu là rất quan trọng đối với sự tồn vong của chế độ và sự phát triển bền vững của quốc gia.
Ngăn chặn và đẩy lùi biểu hiện chủ nghĩa tư bản thân hữu là một quá trình lâu dài, toàn diện, gắn với đổi mới tư duy quản trị quốc gia, hoàn thiện thể chế và quyết liệt thực hiện công cuộc phòng chống tham nhũng, tiêu cực.
Trước hết, cần xác lập ranh giới rõ ràng giữa vai trò của Nhà nước và thị trường. Thị trường phải vận hành theo các quy luật khách quan, cạnh tranh lành mạnh và công bằng; còn Nhà nước phải giữ vai trò kiến tạo, điều tiết và bảo đảm công lý. Muốn vậy, bộ máy Nhà nước phải vận hành trên hai nguyên tắc bất di bất dịch: Một là minh bạch trong mọi hoạt động từ hoạch định chính sách đến thực thi công vụ. Hai là, trách nhiệm giải trình nghiêm ngặt trước nhân dân và pháp luật.
Thứ hai, hoàn thiện thể chế pháp luật theo hướng minh bạch, đồng bộ, giảm thiểu khoảng trống tạo điều kiện cho "lách luật", trở thành rào chắn hữu hiệu chống lại các mối quan hệ lợi ích không chính đáng. Nhiều biểu hiện của chủ nghĩa tư bản thân hữu xuất phát từ kẽ hở pháp luật hoặc những quy định thiếu rõ ràng, chồng chéo. Do đó, cần đẩy mạnh rà soát, sửa đổi và xây dựng các quy định pháp lý theo hướng đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện, hạn chế tối đa các thủ tục hành chính mang tính "xin – cho".
Thứ ba, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc phòng chống tham nhũng, tiêu cực, nhất là chống tham nhũng có tổ chức, mang tính chất hệ sinh thái lợi ích. Cần coi trọng cả biện pháp phòng ngừa và xử lý nghiêm minh. Việc kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức cần được thực hiện thực chất, tránh hình thức. Bên cạnh đó, cũng cần thường xuyên luân chuyển cán bộ, tái lựa chọn cán bộ, tránh để một cán bộ tồn tại ở một vị trí quá lâu.
Thứ tư, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên thực sự “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, có bản lĩnh chính trị và năng lực thực thi công vụ. Kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ là then chốt để ngăn ngừa việc hình thành các mạng lưới lợi ích chính trị - kinh tế. Bên cạnh việc chống lại những biểu hiện của chủ nghĩa tư bản thân hữu, cần chủ động xây dựng một văn hóa chính trị và môi trường công vụ dựa trên liêm chính, trách nhiệm và tinh thần phụng sự. Với đặc điểm văn hóa phương Đông, đặc biệt ở Việt Nam, việc nêu gương có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Khi người đứng đầu các cơ quan, tổ chức giữ mình liêm chính, hành xử mẫu mực và công tâm, thì cấp dưới khó có thể làm sai.
Thứ năm, cần sớm cụ thể hóa yêu cầu được nêu trong Nghị quyết 68-NQ/TW: “Minh bạch hoá, số hoá, thông minh hoá, tự động hoá, áp dụng triệt để trí tuệ nhân tạo và dữ liệu lớn trong thực hiện các quy trình, thủ tục hành chính, nhất là về gia nhập, rút lui khỏi thị trường, đất đai, quy hoạch, đầu tư, xây dựng, thuế, hải quan, bảo hiểm, sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn, quy chuẩn...”, “công khai, minh bạch và chủ động cung cấp thông tin tới doanh nghiệp” [7],… Việc xây dựng hệ thống dữ liệu mở, tiếp cận thông tin dễ dàng là điều kiện quan trọng để người dân và doanh nghiệp mở rộng cơ hội kinh doanh, đồng thời tham gia vào quá trình giám sát thực thi chính sách.
Chính sự đan xen giữa quyền lực chính trị và quyền lực kinh tế, giữa những người có quyền và những người có tiền đã tạo nên những “liên minh lợi ích” bền chặt, khiến cho việc tháo gỡ các rào cản trong quá trình phát triển đất nước còn nhiều phức tạp. Vấn đề cốt lõi không chỉ nằm ở nhận diện, mà là ở bản lĩnh và quyết tâm hành động. Chúng ta có đủ dũng khí để vượt qua những cản trở hữu hình và vô hình, để lựa chọn một con đường phát triển minh bạch, bình đẳng và bền vững hay không? Đó là câu hỏi không chỉ dành cho các nhà hoạch định chính sách, mà còn cho cả hệ thống chính trị và từng doanh nghiệp có trách nhiệm với tương lai đất nước.
Chống chủ nghĩa tư bản thân hữu, chống lợi ích nhóm không đơn thuần là một lựa chọn về quản trị, mà là một yêu cầu sống còn để nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển đúng hướng và rộng hơn là xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu.