Nền kinh tế Việt Nam đang trải qua một giai đoạn hết sức khó khăn, bối cảnh kinh tế trong và ngoài nước có nhiều trở ngại, thách thức, gây áp lực lớn đối với hoạt động của các doanh nghiệp trong nền kinh tế.

Theo khảo sát năm 2022 của Vietnam Report, 96,1% doanh nghiệp đang chịu áp lực tăng giá của các yếu tố đầu vào sản xuất; 61,5% gặp khó khăn bởi gián đoạn do “di chứng” của đại dịch Covid-19 gây ra, 53,9% chịu tác động từ đứt gãy chuỗi cung ứng, 48,1% cho rằng sức mua của người tiêu dùng giảm sút, thị trường tiêu thụ bị thu hẹp và 40,4% khó khăn về thiếu nhân lực sản xuất.

Sang đến năm 2023, tình hình càng trở nên khó khăn hơn, bằng chứng là tăng trưởng kinh tế 6 tháng đầu năm ở mức thấp trong vòng từ năm 2011 đến nay (ngoại trừ năm 2020), khu vực sản xuất liên tục bị thu hẹp trong nhiều tháng, số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập mới giảm cả về số lượng và quy mô vốn trong khi số lượng doanh nghiệp ngừng hoạt động và giải thể tiếp tục tăng.

Trao đổi với Người Đưa Tin, ông Đào Minh Tú - Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước nhấn mạnh, việc tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, duy trì và khôi phục sức khỏe của khu vực doanh nghiệp là ưu tiên hàng đầu, trong đó sự suy giảm khả năng tiếp cận và hấp thụ vốn là vấn đề được đặc biệt quan tâm, cần nhanh chóng đưa ra các giải pháp, chính sách hiệu quả để tháo gỡ.

Chính vì vậy, thời gian qua, Chính phủ đã chỉ đạo đối với các bộ, ngành trong việc triển khai đồng bộ nhiều chính sách hỗ trợ khá toàn diện, tác động lên cả về phía cung và cầu để hỗ trợ doanh nghiệp như miễn, giảm thuế, phí và lệ phí; hỗ trợ về tài chính và tín dụng; thúc đẩy xuất khẩu và bảo vệ chuỗi cung ứng...

Đến nay, sự sát sao và quyết liệt của Chính phủ và sự vào cuộc kịp thời của các bộ, ngành đã từng bước tháo gỡ khó khăn, thách thức, khôi phục niềm tin trong cộng đồng doanh nghiệp.

Trong dòng chảy chính sách đó, ông Tú cho biết, Ngân hàng Nhà nước đã điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả, đảm bảo kiểm soát lạm phát, ổn định thị trường tiền tệ, sự an toàn của hệ thống ngân hàng, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.

Trong đó, những nỗ lực giảm mặt bằng lãi suất trong nền kinh tế, cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ, giảm phí thanh toán… góp phần hỗ trợ khu vực doanh nghiệp vượt qua các khó khăn, thách thức, duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh để từng bước phục hồi.

Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp vẫn tiếp tục phản ánh gặp không ít khó khăn, thậm chí một số ngành cứ khoảng 10 năm lại gặp khó khăn, như một phần trong quy luật phát triển.

Phó Thống đốc Đào Minh Tú thừa nhận, với Ngân hàng Nhà nước “chưa bao giờ công tác điều hành chính sách tiền tệ khó khăn như bây giờ”.

“Khi mức tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống vẫn thấp so với cùng kỳ các năm trước, nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ các yếu tố khách quan như tác động của đầu tư, sản xuất kinh doanh, tiêu dùng; một số nhóm khách hàng có nhu cầu nhưng chưa đáp ứng điều kiện vay vốn, nhất là nhóm doanh nghiệp nhỏ và vừa; tác động từ khả năng hấp thụ vốn của nhóm bất động sản”, Phó Thống đốc cho hay.

Cũng theo ông Tú, sự an toàn, lành mạnh của hệ thống các tổ chức tín dụng sẽ quyết định sự an toàn, lành mạnh của nền tài chính quốc gia trong cả ngắn hạn, trung và dài hạn. “Đây là nhiệm vụ rất khó của Ngân hàng Nhà nước”, ông Tú nói.

Bên cạnh đó, việc triển khai một số chương trình tín dụng như gói hỗ trợ 120.000 tỷ đồng; chương trình hỗ trợ lãi suất cũng gặp vướng mắc.

Lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước cho rằng, trong bối cảnh thanh khoản hệ thống tổ chức tín dụng dư thừa và còn rất nhiều dư địa để tăng trưởng tín dụng, việc triển khai các giải pháp để tăng khả năng hấp thụ vốn của người dân, doanh nghiệp là rất cần thiết để các tổ chức tín dụng có điều kiện cung ứng vốn, mở rộng tín dụng, đáp ứng nhu cầu tăng trưởng.

Theo đó, để nâng cao hiệu quả tiếp cận vốn tín dụng của doanh nghiệp, tăng khả năng tiếp cận vốn của nền kinh tế, Ngân hàng Nhà nước đề xuất 4 nhóm giải pháp.

Một là, nhóm giải pháp kích cầu đầu tư, tiêu dùng, thúc đẩy các động lực tăng trưởng kinh tế. Hai là, nhóm giải pháp phát triển các loại thị trường (trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản). Ba là nâng cao năng lực, khả năng hấp thụ vốn của doanh nghiệp. Bốn là nhóm giải pháp về tiền tệ, tín dụng, lãi suất.

Trong khi trên thế giới đang có xu hướng tăng lãi suất, thắt chặt chính sách tiền tệ thì Việt Nam lại phải giảm lãi suất, hỗ trợ doanh nghiệp.

Theo Ngân hàng Nhà nước, cơ quan này đã phải tiếp tục điều hành giãn hoãn các khoản nợ trong đại dịch Covid-19 thông qua Thông tư 02, liên tục hạ lãi suất điều hành, sử dụng các công cụ để hỗ trợ thanh khoản cho các ngân hàng thương mại. Các ngân hàng thương mại cũng đã tích cực giảm lãi suất cho vay, tiết giảm chi phí, có tín dụng ưu đãi cho các doanh nghiệp.

Tuy nhiên, Phó Thống đốc Đào Minh Tú nói rằng, Ngân hàng Nhà nước hiện như đang đứng giữa “hai dòng nước” trong việc điều hành.

“Một mặt, nếu cứ nới lỏng điều kiện tín dụng thì chất lượng tín dụng giảm sút, nợ xấu tăng lên và dễ rơi vào vòng luẩn quẩn xử lý nợ. Nhưng nếu không tạo điều kiện, thì tín dụng không tăng được và sẽ không có tăng trưởng kinh tế”, ông Tú nói.

Với thị trường bất động sản, Phó Thống đốc cho biết khó khăn chủ yếu về mặt pháp lý. “Ngành bất động sản và ngân hàng hiện đang ngồi chung trên một “chiếc thuyền”. Tuy nhiên vốn của bất động sản hầu hết là của ngân hàng, không có nghĩa tình hình khó khăn của ngành bất động sản là do ngân hàng”, ông Tú nêu rõ.

Lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước chia sẻ, chúng ta phải nhận diện đúng điểm nghẽn để có thể tháo gỡ khó khăn hiện nay, nhưng cũng cần bình tĩnh để chia sẻ với Chính phủ, các bộ ngành lúc này. “Bởi chính sách đã rất quyết liệt, hàng ngày hàng giờ, mục tiêu cuối cùng là để nền kinh tế không trầm lắng, giải quyết được an sinh xã hội”, Phó Thống đốc nhấn mạnh.

Đứng ở góc độ điều hành vĩ mô, Ngân hàng Nhà nước vừa phải điều tiết chính sách tiền tệ, đảm bảo mục tiêu quan trọng nhất là ổn định vĩ mô, kiểm soát lạm phát đồng thời cũng đảm bảo hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, tuy nhiều lúc hai mục tiêu này ngược chiều nhau nhưng dưới sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, 2 mục tiêu này vẫn được đảm bảo.

Về giảm lãi suất, ông Tú cho biết, việc giảm là nên làm nhưng phải đảm bảo khối lượng tín dụng, chất lượng tín dụng, đảm bảo về tỉ giá, ổn định niềm tin của nhà đầu tư. Bên cạnh đó, giảm lãi suất cho vay nhưng phải hạn chế giảm lãi suất huy động ở mức độ phù hợp.

Tiếp đến, tăng trưởng tín dụng nhưng cũng phải tăng chất lượng tín dụng. “Đây cũng là hai dòng nước ngược chiều nhau mà Ngân hàng Nhà nước cần giải quyết nhằm đảm bảo an toàn hệ thống, an ninh tài chính quốc gia”, Phó Thống đốc nêu.

Phó Thống đốc Đào Minh Tú cũng nói thêm, thị trường tiền tệ bấy lâu nay luôn gánh trách nhiệm cung ứng vốn ngắn hạn, trung và dài hạn cho nền kinh tế. Sự khó khăn của thị trường trái phiếu, chứng khoán thời gian qua đã đẩy bài toán vốn cho tín dụng.

Về định hướng điều hành từ nay đến cuối năm, lãng đạo Ngân hàng Nhà nước nhận định, mục tiêu gia tăng tín dụng vẫn phải đặt ra, những việc làm tốt rồi cần tốt hơn.

Thứ nhất, điều hành lãi suất phù hợp với cân đối vĩ mô, lạm phát và mục tiêu chính sách tiền tệ; tiếp tục có các giải pháp chỉ đạo các tổ chức tín dụng tiết giảm chi phí để giảm mặt bằng lãi suất cho vay, cắt giảm các loại phí không cần thiết nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, người dân phục hồi và phát triển sản xuất kinh doanh.

Thứ hai, cắt giảm thủ tục tiếp cận tín dụng, kích thích các doanh nghiệp vay vốn. Tuy nhiên bản chất của ngân hàng thương mại cũng là một doanh nghiệp, huy động tiền của người dân để cho vay, vì vậy phải đảm bảo thanh khoản.

Thứ ba, giám sát chặt chẽ việc triển khai chính sách cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn theo Thông tư 02; kịp thời hướng dẫn, tháo gỡ vướng mắc phát sinh. Đồng thời, tiếp tục triển khai thực hiện Đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2025 và công tác xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42.

Thứ tư, NHNN tiếp tục đẩy mạnh chuyển đổi số trong hoạt động ngân hàng, đáp ứng yêu cầu đối với các mô hình kinh doanh và sản phẩm dịch vụ mới trên nền tảng công nghệ, ngân hàng số, thanh toán số. Tăng cường bảo đảm an ninh, an toàn trong hoạt động thanh toán và chuyển đổi số.

Thứ năm, tích cực đối thoại với doanh nghiệp, chính quyền địa phương, các bộ ngành tăng cường trao đổi để có thể hỗ trợ doanh nghiệp kịp thời.

Về điều hành chính sách tiền tệ, trong thời gian gian tới, Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, hợp lý, hiệu quả, phù hợp với điều kiện nền kinh tế Việt Nam.

“Hiện ngân hàng đang thừa tiền, cũng đau đầu tìm mọi cách đẩy vốn ra nền kinh tế, nhưng phòng ngừa rủi ro vẫn là mục tiêu hàng đầu khi cho vay vốn.

Vì vậy, ngay chính bản thân doanh nghiệp cũng cần phải có những giải pháp để phát triển sản xuất kinh doanh, tạo uy tín và lòng tin đối với ngân hàng, để đôi bên cùng nhau hỗ trợ và phát triển”.

Ông Nguyễn Thanh Tùng - Phó Tổng Giám đốc Vietcombank

NGUOIDUATIN.VN | Thứ 7, 14/10/2023 | 07:10