img

Từ vị thế của một “người học việc” đi sau, Việt Nam đã từng bước trưởng thành để trở thành đối tác ngang hàng, tham gia đồng kiến tạo luật chơi, góp phần đặt nền móng cho những FTA và tự tin bước vào kỷ nguyên hội nhập sâu rộng.

Song hành cùng với công cuộc 40 năm đổi mới, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam cũng ghi nhận những dấu mốc đầy tự hào. Từ một nền kinh tế khép kín, nặng về tự cung tự cấp, Việt Nam đã từng bước “mở cửa”, khẳng định vị thế trong cộng đồng quốc tế và trở thành một trong những điểm sáng về hội nhập khu vực châu Á – Thái Bình Dương.

Quá trình này không chỉ phản ánh sự chuyển mình mạnh mẽ của nền kinh tế mà còn gắn liền với đổi mới tư duy đối ngoại, đường lối lãnh đạo sáng suốt của Đảng, Nhà nước và sự kiên định, nỗ lực trong đàm phán, ký kết và thực thi Hiệp định Thương mại tự do (FTA).

[E] Từ “người học việc” đến “nhà kiến tạo” FTA- Ảnh 1.

Nhìn lại chặng khởi đầu ấy, ông Ngô Chung Khanh – Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên (Bộ Công Thương) cho rằng, các FTA chính là phép thử bản lĩnh của một nền kinh tế vừa “làm quen” với thế giới, vừa phải tìm cách khẳng định mình.

Dấu mốc đầu tiên vào năm 1995, khi Việt Nam chính thức bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ, gia nhập ASEAN và từng bước quay trở lại cộng đồng thương mại quốc tế, ít ai có thể hình dung rằng hành trình hội nhập sau đó sẽ đưa đất nước đi xa đến vậy.

“Tham gia ASEAN khi ấy chính là việc chúng ta bước vào một ngôi nhà chung của khu vực, đánh dấu sự khởi đầu thực sự cho tiến trình hội nhập kinh tế hiện đại của Việt Nam”, ông Ngô Chung Khanh nhớ lại.

[E] Từ “người học việc” đến “nhà kiến tạo” FTA- Ảnh 2.

Cũng từ đây, chỉ hai năm sau, Việt Nam gia nhập APEC. Đặc biệt, năm 2000 chúng ta ký kết Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ (BTA), dù không phải FTA nhưng đây cũng là “viên gạch” đầu tiên giúp Việt Nam mở cửa thị trường và cải cách hệ thống thương mại, tạo nền tảng cho việc ký kết các FTA sau này.

Sau đó, Việt Nam tiến thêm những bước tiến dài khi cùng ASEAN ký kết các FTA đa phương với Trung Quốc (2002), Hàn Quốc (2006). Nhưng mốc son đặc biệt phải kể đến năm 2007, khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên WTO.

“Trước đó, khi chúng ta đề xuất việc ký kết FTA, các đối tác luôn bảo rằng: anh phải “đủ chuẩn quốc tế” đã, rồi mới tính chuyện FTA”, ông Ngô Chung Khanh kể.

[E] Từ “người học việc” đến “nhà kiến tạo” FTA- Ảnh 3.

Ngày 31/5/2006, Thứ trưởng Bộ Thương mại Lương Văn Tự ký Hiệp định gia nhập WTO với ông Karan Bhatia - Phó đại diện thương mại Mỹ (Ảnh tư liệu).

Và “đủ chuẩn quốc tế” khi ấy chính là WTO. Gia nhập WTO giống như “tấm vé thông hành”, mở ra cánh cửa để Việt Nam có thể ngồi ngang hàng, bàn chuyện thương mại tự do với các nền kinh tế lớn trên thế giới. Với WTO, Việt Nam mất 11 năm đàm phán cùng hàng trăm phiên họp đa phương với 149 nước và vùng lãnh thổ.

Và quả thực, sau WTO, tốc độ ký kết FTA của Việt Nam tăng vọt, chỉ một năm sau, năm 2008 Việt Nam ký kết FTA đa phương giữa ASEAN – Nhật Bản. Sang năm 2009 có thêm tới 3 FTA, trong đó có FTA song phương đầu tiên với Nhật Bản; 2 FTA đa phương giữa ASEAN - Ấn Độ, ASEAN - Úc, New Zealand. Năm 2011 là FTA song phương giữa Việt Nam - Chile.

Đặc biệt, năm 2015 có thể nói là một mốc đáng nhớ trong cái quá trình hội nhập, bởi “chúng ta kết thúc được đàm phán FTA với các đối tác thương mại lớn nhất của mình”. Đó là những FTA “khủng” cùng Mỹ (trong khuôn khổ TPP), Liên minh Kinh tế Á – Âu (EAEUFTA) và Hàn Quốc (VKFTA).

Chuyển tiếp từ sau năm 2018, hành trình hội nhập của Việt Nam bước sang một giai đoạn mới, khi chủ động ký kết loạt FTA thế hệ mới, tiêu chuẩn cao với những đối tác hàng đầu.

Năm 2019, ngoài FTA đa phương trong khuôn khổ ASEAN – Hongkong, Việt Nam đã ký kết loạt FTA thế hệ mới gồm CPTPP, EVFTA và EVIPA.

[E] Từ “người học việc” đến “nhà kiến tạo” FTA- Ảnh 4.

Đáng chú ý, năm 2020, Hiệp định RCEP ra đời, được ví như một “siêu FTA” với sự tham gia của 10 nước ASEAN và 5 đối tác lớn, tạo nên thị trường hơn 2,2 tỷ người tiêu dùng, chiếm khoảng 30% GDP toàn cầu. Cũng trong cùng năm, Việt Nam ký kết FTA thế hệ mới UKVFTA với Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland. 

Và gần đây, Việt Nam tiếp tục mở rộng mạng lưới đối tác, ký kết các FTA song phương với Israel (2023) và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (2024). Đồng thời cũng thúc đẩy đàm phán FTA với EFTA, ASEAN – Canada và nghiên cứu mở rộng sang nhiều thị trường tiềm năng khác.

Như vậy, sau hành trình 30 năm từ những dấu mốc đầu tiên, Việt Nam hiện đang có 7 FTA đa phương, 6 FTA song phương cùng 4 FTA thế hệ mới với hơn 60 quốc gia và vùng lãnh thổ, chiếm khoảng 90% GDP toàn cầu.

Từ những bước đi còn “dè dặt” ban đầu, Việt Nam đã tự tin tham gia hội nhập quốc tế sâu rộng, và nằm trong nhóm các nền kinh tế có độ mở lớn nhất thế giới. Nếu năm 1986, kim ngạch xuất nhập khẩu mới chỉ đạt vài tỷ USD, đến năm 2024, con số này đã tới gần 800 tỷ USD, gần gấp đôi GDP, đưa Việt Nam đứng trong nhóm 20 nền kinh tế thương mại lớn nhất toàn cầu.

[E] Từ “người học việc” đến “nhà kiến tạo” FTA- Ảnh 5.

Hành trình trưởng thành trên con đường đàm phán những FTA, dĩ nhiên, không dễ dàng. Kể về những ngày đầu đàm phán WTO, ông Ngô Chung Khanh cho biết đoàn Việt Nam còn lúng túng đến mức… chưa biết cách xây dựng một bản chào.

“Khi ấy, cúng ta vừa bước ra khỏi thời kỳ bao vây, cấm vận, vốn ít kinh nghiệm, gần như chưa biết nhiều về luật chơi quốc tế. Lúc ấy, phải nói thật, chúng ta vừa làm vừa học”, Phó Vụ trưởng nói.

[E] Từ “người học việc” đến “nhà kiến tạo” FTA- Ảnh 6.

Câu chuyện WTO là một ví dụ sinh động. Ông Khanh kể, thậm chí khi bắt tay vào đàm phán, Việt Nam còn chưa biết cách xây dựng một bản chào ra sao, chưa hình dung nổi việc rà soát chính sách thương mại hay chuẩn mực quốc tế phải thể hiện thế nào trên giấy tờ.

“Kể cả những văn bản tổng hợp cuối cùng để kết thúc đàm phán, chúng ta cũng chưa rõ phải làm theo chuẩn mực nào”, ông nhớ lại.

Thẳng thắn và cầu thị, Việt Nam lựa chọn không giấu dốt với thái độ “chúng tôi chưa có kinh nghiệm, nhờ các bạn hỗ trợ”. Và rõ ràng, “những đối tác ban đầu đàm phán với chúng ta thực sự là thầy”.

Theo đó, Tổ chức WTO cử chuyên gia sang tận nơi, trong đó có cả ông Arthur Dunkel – nguyên Tổng Giám đốc Hiệp định Chung về Thuế quan và Thương mại (GATT) trực tiếp đến làm việc với các bộ ngành, kiên nhẫn giải thích từng quy trình, từng yêu cầu. Các chuyên gia quốc tế cũng không tiếc công sức, chia sẻ kinh nghiệm, thậm chí hướng dẫn tỉ mỉ cách viết một bản chào sao cho đúng chuẩn.

Nhưng điều đặc biệt, cũng là “vũ khí” của Việt Nam, chính là khả năng học hỏi nhanh chóng. Chỉ một thời gian sau, đoàn đàm phán Việt Nam đã có thể bước vào bàn thương lượng với sự tự tin khác hẳn: không còn là những người đi học việc, mà là đối tác ngang hàng.

“Các bạn quốc tế cũng phải thừa nhận và họ đánh giá rất cao trình độ, những kiến thức, kể cả kinh nghiệm của đoàn đàm phán Việt Nam”, ông Khanh kể, ánh mắt ánh lên niềm tự hào.

[E] Từ “người học việc” đến “nhà kiến tạo” FTA- Ảnh 7.

Đoàn Việt Nam tham gia Hội nghị Bộ trưởng TPP.

Bên cạnh đó, hành trình ký kết các FTA cũng phản ánh sự thay đổi vị thế của Việt Nam qua từng cột mốc. Gia nhập ASEAN hay WTO, chúng ta đi bằng con đường “xin gia nhập”, trở thành thành viên chứ chưa có cơ hội định hình luật chơi.

Nhưng đến TPP (tiền thân của CPTPP), Việt Nam đã bước lên một nấc thang mới: tham gia ngay từ đầu vào quá trình kiến tạo.

“Lần này, chúng ta không chỉ ngồi nghe mà cùng thảo luận, xây dựng, đặt nền móng cho một FTA đa phương đúng nghĩa. Đó là sự khác biệt”, ông Khanh khẳng định.

Không dừng ở việc tham gia, Việt Nam còn dần thể hiện vai trò kiến tạo, đóng góp sáng kiến, đề xuất giải pháp để các cơ chế vận hành hiệu quả hơn. Từ WTO đến CPTPP, dấu ấn Việt Nam hiện rõ qua những hoạt động chủ động, những sáng kiến được quốc tế ghi nhận.

“Chúng ta không còn là khách, mà là đồng chủ nhà, cùng thiết kế luật chơi. Đó là một bước trưởng thành quan trọng, khẳng định vị thế của Việt Nam trong quá trình hội nhập”, ông Khanh nói.

[E] Từ “người học việc” đến “nhà kiến tạo” FTA- Ảnh 8.

Đặc biệt, từ những FTA truyền thống, Việt Nam đã nâng tầm các hiệp định ký kết có phạm vi sâu rộng và toàn diện hơn thông qua các FTA thế hệ mới. Từ đó, mở ra các thị trường lớn, thu hút đầu tư, cải thiện thể chế pháp luật theo chuẩn mực quốc tế, thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu, và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.

[E] Từ “người học việc” đến “nhà kiến tạo” FTA- Ảnh 9.

Nhờ những nỗ lực trên tiến trình đàm phán và ký kết các FTA, hiện nay hàng hóa Việt Nam đã hiện diện tại hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có nhiều thị trường có yêu cầu cao như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản...

Nhưng điều nghịch lý là, dù kim ngạch tăng mạnh, nhiều FTA lớn vẫn chưa được khai thác hết. Các doanh nghiệp Việt vẫn thiên về thị trường “quen, gần, tiện” ở Đông Á, dù tổng thâm hụt thương mại ở đây luôn ở mức hơn 100 tỷ USD. Ngược lại, các thị trường xa hơn như EU, Anh, Canada hay Mexico – nơi Việt Nam có thặng dư lớn, ở mức hơn 100 tỷ lại chưa được tận dụng đầy đủ.

“Vì doanh nghiệp vẫn quan tâm đến các thị trường truyền thống mà họ thấy gần, thấy tiện, thấy quen. Và nhiều khi cái tiện, cái quen lại không đem lại nhiều giá trị kinh tế”, ông Khanh phân tích.

[E] Từ “người học việc” đến “nhà kiến tạo” FTA- Ảnh 10.
[E] Từ “người học việc” đến “nhà kiến tạo” FTA- Ảnh 11.
[E] Từ “người học việc” đến “nhà kiến tạo” FTA- Ảnh 12.
[E] Từ “người học việc” đến “nhà kiến tạo” FTA- Ảnh 13.
[E] Từ “người học việc” đến “nhà kiến tạo” FTA- Ảnh 14.

Lấy ví dụ, Phó Vụ trưởng chỉ ra, thủy sản, nông sản Việt mới chỉ chiếm 2–3% thị phần EU; dệt may khoảng 3–4%. Và rõ ràng, “khoảng trống ấy, nếu được lấp đầy, sẽ tạo cú hích lớn cho xuất khẩu”.

Do đó, bước vào kỷ nguyên mới, hướng tới mục tiêu tăng trưởng 2 con số, Việt Nam phải đặt ra yêu cầu khai thác triệt để không gian FTA, mà theo ông Khanh “điều quan trọng nhất là kết nối”.

Đó là sự kết nối giữa nông dân – nhà sản xuất – nhà xuất khẩu, giữa doanh nghiệp với ngân hàng, logistics, hiệp hội, cơ quan quản lý địa phương và trung ương. Chỉ khi các “mắt xích” trên biết hỗ trợ nhau, tạo điều kiện nâng đỡ nhau, thì mới tạo thành sức mạnh tập thể để chinh phục những thị trường khó tính.

Với ông Ngô Chung Khanh, FTA không chỉ là “cánh cửa mở” mà còn là phép thử nội lực.

“Ký FTA tức là chấp nhận chơi sòng phẳng, mở cửa cho đối thủ vào. Ta muốn thắng ngoài kia thì trong nước cũng phải đủ mạnh”, ông Khanh nói.

[E] Từ “người học việc” đến “nhà kiến tạo” FTA- Ảnh 15.

“Trong nước phải đủ mạnh” ở đây chính là củng cố nội lực quốc gia. Nội lực ấy trước hết đến từ thể chế, một hệ thống luật lệ minh bạch, ổn định, tuân thủ chuẩn mực quốc tế. Đó là cam kết để đối tác tin Việt Nam là điểm đến tin cậy.

Kế đến là sức cạnh tranh của doanh nghiệp: sản phẩm tốt hơn, quy trình bài bản hơn, khả năng tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. Và cuối cùng, chính là thị trường nội địa, “hội nhập thì phải có hậu phương chắc” để chống đỡ mỗi khi thương mại quốc tế gặp sóng gió.

Như vậy, nhìn lại chặng đường hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, chúng ta tự hào khi vai trò của Việt Nam, vị thế của Việt Nam và tiếng nói của Việt Nam ngày càng được nâng cao, có thể thấy rõ, từ một “người học việc” đi sau, chúng ta đã trở thành một đối tác sẵn sàng đồng kiến tạo luật chơi toàn cầu.

Hướng tới năm 2045 đất nước kỷ niệm 100 năm thành lập, hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tiếp tục là động lực then chốt để thực hiện khát vọng trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao. Các FTA không chỉ là “tấm hộ chiếu” đưa hàng hóa, dịch vụ đi xa, mà còn hun đúc bản lĩnh, thử thách sức chịu đựng và khát vọng vươn cao của dân tộc.

[E] Từ “người học việc” đến “nhà kiến tạo” FTA- Ảnh 16.

THỰC HIỆN: THANH LOAN        THIẾT KẾ: PHƯƠNG HẠNH

NGUOIDUATIN.VN | Thứ Bảy, 11/10/2025 | 08:00

Bạn cần đăng nhập để thực hiện chức năng này!

Bình luận không đăng nhập

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.