Sau 80 năm lập quốc, gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới, văn hóa Việt Nam đã có những bước tiến dài cả về nhận thức, chính sách và thành tựu thực tiễn. Từ chỗ được nhìn nhận chủ yếu là nền tảng tinh thần, văn hóa ngày càng được khẳng định là một trong những trụ cột phát triển bền vững của đất nước, góp phần quan trọng nâng tầm vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Trao đổi với Người Đưa Tin, ông Lê Doãn Hợp, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thông tin, cho rằng trong giai đoạn phát triển mới, cần chuyển từ tư duy “tiêu tiền cho văn hóa” sang “làm giàu từ văn hóa”. Xa hơn nữa là phải kiến tạo một triết lý văn hóa cho phát triển đất nước bền vững và hùng cường.
Người Đưa Tin (NĐT): Thưa ông, nhìn lại hành trình 80 năm kể từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, ông đánh giá thế nào về vai trò của văn hóa trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước?
Ông Lê Doãn Hợp: Tôi cho rằng, trong suốt 80 năm qua, từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, văn hóa đã luôn là gốc rễ, là nền tảng tinh thần, là hồn cốt dân tộc trong mọi bước đi của cách mạng Việt Nam.
Nói một cách ngắn gọn, nếu chính trị là trụ cột lãnh đạo, kinh tế là động lực phát triển thì văn hóa chính là nền tảng đạo đức, là sức mạnh nội sinh quyết định chiều sâu bền vững của quốc gia. Không có một dân tộc nào phát triển mà không dựa trên cốt cách văn hóa của chính mình.
Trong kháng chiến, văn hóa đã hun đúc tinh thần yêu nước, khơi dậy lòng tự tôn dân tộc, ý chí quyết chiến, quyết thắng quân xâm lược, làm nên một thế trận lòng dân vững chắc của thời đại Hồ Chí Minh. Trong hòa bình, văn hóa là ánh sáng soi đường, là chất kết dính cộng đồng, là kim chỉ nam để đổi mới và phát triển bền vững. Một đất nước có thể giàu lên nhờ kinh tế, mạnh lên nhờ quốc phòng an ninh, nhưng nếu không có văn hóa, không có đạo đức, thì sẽ tự đánh mất chính mình.
Bác Hồ đã từng dạy: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”. Tôi nghĩ, hôm nay và cả mai sau, chân lý đó vẫn còn nguyên giá trị. Đặc biệt, khi đất nước ngày càng hội nhập sâu rộng, thì văn hóa càng phải giữ vai trò định vị bản sắc, giúp chúng ta hội nhập mà không hòa tan.
Bên cạnh đó, với những giá trị văn hóa đặc sắc mà chúng ta có, văn hóa không chỉ là nền tảng, là hồn cốt của dân tộc mà còn là chất liệu, là tài nguyên, là nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội. Điều quan trọng là chúng ta biết cách biến tiềm năng, lợi thế thành động lực nội sinh để phát triển đất nước.
NĐT: Từ khi đất nước bước vào công cuộc Đổi mới năm 1986 đến nay đã tròn 40 năm. Từng giữ trọng trách Bộ trưởng Bộ Văn hoá - Thông tin, ông đánh giá đâu là những chuyển biến lớn nhất trong đời sống văn hóa của Việt Nam?
Ông Lê Doãn Hợp: Tôi cho rằng, chuyển biến lớn nhất trong đời sống văn hóa Việt Nam sau 40 năm Đổi mới chính là chuyển biến về nhận thức, bởi nhận thức đúng sẽ quyết định hành động đúng.
Trước Đổi mới, do hoàn cảnh lịch sử, có lúc văn hóa đã bị xem nhẹ so với các lĩnh vực khác, nhiều giá trị văn hóa bị hiểu lầm, bị bài xích dưới góc nhìn phiến diện, thiên lệch hoặc tầm nhìn hạn hẹp, dẫn đến nhiều di sản, giá trị văn hóa bị mai một, thậm chí biến mất. Đó là điều đáng tiếc. Tuy nhiên, quá trình đổi mới đã tạo nên sức sống mới, diện mạo mới cho văn hóa Việt Nam. Đến nay, chúng ta đã khẳng định: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội và trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển.
Từ nhận thức đúng đó, trong 40 năm qua, văn hóa Việt Nam đã có nhiều bước chuyển đáng quý.
Trước hết, bản sắc văn hoá các dân tộc được bảo tồn, duy trì, phát triển, nâng cao. Đất nước đổi mới, kinh tế hội nhập sâu rộng, nhưng văn hoá không bị hoà tan, mai một. Điều này được thể hiện rất rõ là văn hoá của 54 dân tộc anh em không bị nhạt phai, mà được gìn giữ, phát huy giá trị truyền thống không chỉ để bảo tồn, mà còn là thế mạnh của nhiều địa phương trong phát triển du lịch.
Thứ hai, văn hóa truyền thống đã được phục hồi và tôn trọng một cách căn bản. Những giá trị từng bị xem nhẹ, thậm chí bị kỳ thị, như phong tục, tín ngưỡng, di sản văn hóa vật thể, phi vật thể được đánh giá lại, tôn vinh, phục dựng và ngày càng thể hiện vai trò kết nối con người với cội nguồn. Nhiều lễ hội văn hoá địa phương, vùng miền và quốc gia được bảo tồn, phục dựng sâu sắc hơn, bản sắc hơn, phong phú hơn.
Thứ ba, văn hóa Việt Nam đã bước ra thế giới, hội nhập với thế giới, và được thế giới ghi nhận. Hàng chục di sản văn hóa vật thể, phi vật thể, di sản thiên nhiên, di sản ký ức thế giới của Việt Nam được UNESCO công nhận. Tên tuổi của người Việt được khắc trong danh sách Danh nhân văn hóa thế giới. Chúng ta đã có mặt trên bản đồ văn hóa toàn cầu không chỉ bằng truyền thống, mà cả bằng năng lực sáng tạo hiện đại.
Thứ tư, các thiết chế, loại hình ngày càng đa dạng và phong phú. Các sản phẩm văn hóa ngày càng chất lượng, hiện đại, được cộng đồng thế giới biết đến và đánh giá tích cực. Thậm chí với một số hoạt động văn hóa cụ thể, Việt Nam còn tỏ ra là có đẳng cấp và đã tạo ra được ấn tượng tích cực trên trường quốc tế, không thua kém so với các nền kinh tế phát triển.
Thứ năm, hưởng thụ văn hóa của đại đa số người dân đều được nâng cao, kể cả những người ở vùng sâu vùng xa. Từ một quốc gia nghèo đói, chậm phát triển, thu nhập và đời sống văn hóa của nhiều tầng lớp dân được cải thiện cả về trình độ và chất lượng. Khoảng cách về hưởng thụ văn hóa của người dân ngày càng thu hẹp.
NĐT: Phải thừa nhận rằng những thành tựu chúng ta đã đạt được là rất to lớn. Tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận việc phát triển văn hóa vẫn còn nhiều vấn đề đáng ngại, nhất là sự xuống cấp về văn hóa, đạo đức của một bộ phận xã hội. Ông nghĩ sao về điều này?
Ông Lê Doãn Hợp: Đúng là đạo đức, văn hoá của một bộ phận trong xã hội đang xuống cấp, thậm chí xuống cấp chưa rõ điểm dừng.
Tôi rất đau đáu trước hiện tượng này, nên trong bài thơ “Quê tôi từ xã lên phường”, tôi đã phải thốt lên rằng: “Giá kinh tế bây giờ có đạo đức ngày xưa”. Nếu hiện tượng cá biệt này trở nên phổ biến thì thực sự nguy hiểm, bởi văn hoá, đạo đức xuống cấp thì mọi thành tựu về kinh tế, vật chất đạt được sau 40 năm đổi mới không còn nhiều ý nghĩa. Còn xa hơn, là xương máu của ông cha đã đổ xuống để giải phóng dân tộc sẽ nhạt nhoà khi một bộ phận thanh niên không biết trân quý.
Phải khẳng định rằng chưa bao giờ Việt Nam có một thời kỳ phát triển toàn diện như hiện nay. Nhưng nhìn từ một phía khác, bức tranh giá trị của xã hội Việt Nam lại có nhiều mảng tối rất đáng quan ngại với một diện mạo không thiếu những hiện tượng kém giá trị, phi giá trị, thậm chí phản giá trị.
Vậy cái gì đáng quan ngại nhất? Phải chăng, chính là ở văn hóa? Chính là ở sự “xuống cấp đạo đức” mà không ít người coi như chuyện bình thường? Tôi cho rằng, điều nguy hiểm nhất của văn hóa hôm nay không chỉ là sự lệch chuẩn, mà là sự chấp nhận cái lệch chuẩn như một lẽ tự nhiên.
Đáng lo hơn, là trong một số trường hợp, thể chế vô tình tiếp tay cho sự lệch chuẩn. Luật pháp có kẽ hở. Cơ chế không minh bạch. Chính sách chưa khuyến khích được người tốt, việc tốt, mà trong nhiều trường hợp còn tạo môi trường cho giả dối lên ngôi, thật thà bị thua thiệt.
NĐT: Theo ông, đâu là vấn đề căn cốt của hiện tượng xuống cấp văn hóa đó? Và cần làm gì để khắc phục tình trạng này?
Ông Lê Doãn Hợp: Từng là người lính Cụ Hồ, đã trải qua 9 năm tham gia giải phóng miền Nam, tôi rất thấu hiểu cội rễ của văn hoá nhiều vùng miền. Nói một cách dễ hiểu, văn hoá chính là đạo đức, là tình người, tình đồng bào, đồng chí, đồng đội, tình cảm gia đình, anh em, bè bạn, quê hương, là những thứ không thể cân đong, đo đếm được.
Có thể nói, một người có đạo đức sẽ tỏa ra bên ngoài bằng văn hóa. Một người có văn hóa vì bên trong họ có đạo đức. Vì vậy, văn hóa là tinh hoa của đạo đức.
Đất nước bây giờ đã khác rất xa so với thời cha anh. Nhiều giá trị của văn hóa, đạo đức đang ngày càng bị lệch lạc và ngày một nhức nhối dù đã được cảnh báo từ nhiều năm trước. Thói vụ lợi và thực dụng qua sự kích thích của mặt mặt trái kinh tế thị trường đã làm cho không ít người lầm tưởng rằng “tiền bạc” và “quan lộc” là giá trị đỉnh cao của đời sống, danh vọng, công lý và uy tín là có thể mua được. Giả dối đã phổ biến trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, thậm chí giả dối trong không ít trường hợp đã công nhiên lấn át sự tử tế và chân thật. Nhiều giá trị tốt đẹp bị mai một, thay vào đó là những giá trị ảo, phi giá trị, vô giá trị, thậm chí phản giá trị thế chỗ hoặc lên ngôi.
Chủ tịch nước Lương Cường và phu nhân cùng Nhà vua Vương quốc Bỉ Philippe và Hoàng hậu thăm Hoàng thành Thăng Long, tháng 4-2025.
Đã đến lúc, chúng ta định hình lại hệ giá trị văn hóa Việt Nam để phù hợp với thời đại và khắc phục những nhược điểm.
Đối với một cá nhân, có 3 thước đo để xác định một người có văn hóa. Đó là văn hóa ứng xử, văn hóa trí tuệ và văn hóa vật chất. Người có văn hóa ứng xử tốt là người xuất hiện ở đâu cũng làm cho mọi người cảm thấy tin yêu và dễ chịu. Tiếp đó là văn hóa trí tuệ. Người có văn hóa trí tuệ là người khi mới gặp thì ngại, nói chuyện thì khoái, chia tay mong muốn ngày gặp lại. Trong tình hình hiện nay không thể không nói đến văn hóa vật chất. Một người có văn hóa vật chất là luôn sống bằng thành quả lao động chân chính của mình.
Đối với xã hội, theo tôi, cần chú trọng đầu tư vào 3 trụ cột văn hóa nền tảng và 2 trụ cột văn hóa thượng tầng. Nếu phát triển, xây dựng được 5 trụ cột văn hóa này thì đất nước mới phát triển và văn hóa mới được tôn vinh.
Theo đó, 3 trụ cột văn hóa nền tảng bao gồm: Thứ nhất là văn hóa gia đình - nền tảng của xã hội; thứ hai là văn hóa doanh nghiệp - nền tảng kinh tế của đất nước; Thứ ba là văn hóa công sở - đạo đức công vụ - là nền tảng chính trị của quốc gia. 2 trụ cột văn hóa thượng tầng bao gồm: Thứ nhất là văn học nghệ thuật; Thứ hai là các di sản vật thể và phi vật thể. Khi 5 trụ cột văn hóa này được quan tâm, thì văn hóa của dân tộc sẽ thăng hoa.
NĐT: Thế giới đang có những dịch chuyển lớn mà cuộc dịch chuyển lớn nhất là từ thế giới thực sang thế giới số. Văn hóa cần thích ứng như thế nào, thưa ông?
Ông Lê Doãn Hợp: Chuyển đổi số đang là xu thế tất yếu và không thể đảo ngược. Với văn hóa, tôi cho rằng nó mang lại cả cơ hội và thách thức, nhưng dường như cơ hội đang nhiều hơn.
Và tất nhiên, để tận dụng được cơ hội, văn hóa không được phép đứng bên lề. Văn hóa phải chủ động bước vào không gian số với tư thế của người dẫn dắt, không phải là kẻ chạy theo. Tức là, không phải công nghệ quyết định văn hóa, mà phải làm cho văn hóa quyết định cách con người sử dụng công nghệ. Trước đây, con người truyền thông qua sách, báo, thư tay… thì nay là qua mạng xã hội, nền tảng số. Nhưng nếu nội dung không có văn hóa, thì dù công nghệ có hiện đại đến mấy, vẫn là phương tiện truyền bá sự phi văn hóa.
Vì thế, tôi cho rằng ba điều lớn nhất cần làm để văn hóa thích ứng tốt trong thế giới số. Trước hết, phải chuyển đổi tư duy văn hóa từ “hữu hình” sang “vô hình”. Trước đây, chúng ta nghĩ đến văn hóa là di tích, lễ hội, sân khấu, sách vở. Nay, văn hóa cần hiện diện trong mỗi cú click chuột, mỗi dòng trạng thái, mỗi hành vi ứng xử trên không gian mạng.
Thứ hai, xây dựng chuẩn mực đạo đức số. Thế giới số cho phép mỗi cá nhân trở thành một “tòa soạn” độc lập. Nhưng không có chuẩn mực văn hóa đi kèm, thì nó dễ trở thành nơi phát tán giả dối, bạo lực, thù hận và sự nhảm nhí. Do đó, đạo đức số, nghĩa là trách nhiệm xã hội trong không gian mạng, phải trở thành một nội dung giáo dục bắt buộc từ trong nhà trường, tới cơ quan và toàn xã hội.
Thứ ba, làm chủ công nghệ để lan tỏa cái đẹp, cái tử tế. Ở đây, văn hóa cần đến sự đồng hành của truyền thông, công nghệ, giáo dục, và cả thể chế. Một bài viết nhân văn nếu không được lan tỏa đúng cách thì sẽ lặng lẽ trôi đi. Nhưng một thông tin tiêu cực lại có thể được chia sẻ hàng triệu lượt. Ở đây không phải lỗi ở công nghệ, mà là ở hệ sinh thái văn hóa chưa đủ mạnh để làm chủ không gian số.
Câu chuyện văn hóa trong kỷ nguyên số cũng giống như người chèo lái con thuyền trên đại dương mới, nếu không có la bàn giá trị, không có bản đồ đạo đức, thì rất dễ bị cuốn trôi vào vùng xoáy của nhảm nhí, giả dối và vô cảm. Văn hóa Việt Nam, với chiều sâu hàng nghìn năm, nếu biết “số hóa” bằng giá trị thực, chắc chắn sẽ không bị hòa tan mà còn lan tỏa rộng hơn trong không gian toàn cầu.
NĐT: Thưa ông, nhưng chúng ta có sợ thế giới số lấn át thế giới thật và hậu quả là sự xuống cấp văn hóa sẽ ngày càng nghiêm trọng?
Ông Lê Doãn Hợp: Trước hết phải nói, xã hội mạng, cư dân mạng là xã hội ảo, nhưng xã hội ảo phản ánh trung thực, khách quan xã hội thật. Xã hội thật diễn ra thế nào, trong mạng ảo phản ánh đúng như thế nên muốn giải quyết vấn đề của xã hội ảo phải giải quyết từ xã hội thật.
Giải quyết vấn đề, nói cụ thể là quản lý nhà nước, nhưng “quản” phải có “lý”, phải dựa trên nguyên lý quản lý, luật pháp phải thay đổi kịp thời để phù hợp với cuộc sống, định hình cho mọi sự phát triển. Quản lý xã hội mạng cũng như quản lý xã hội thật, tức là phải quản lý từ cơ sở, “quản” phải có “lý” . Nghĩa là tôn trọng pháp lý và quan tâm đến tâm lý của nhân dân.
Chúng ta đang sống cùng Cuộc cách mạng công nghệ 4.0 và rồi sẽ đến Cách mạng 5.0 và không thể đứng bên lề cuộc cách mạng này. Nhìn một số thanh niên hư hỏng, sống không khát vọng, không biết đến ngày mai, sống thụ động, thậm chí là vi phạm pháp luật đến mức phải rơi vào đường lao lý, nhiều người quy kết do Internet, mạng xã hội, do sự phát triển của công nghệ-thông tin, theo tôi những quy kết này là thiếu thuyết phục vì những người này chỉ là số ít so với số đông còn lại đang và sẽ dựa vào nền tảng công nghệ – thông tin, Internet để học tập, thu nạp thông tin, kiến thức, học điều hay, lẽ phải, học làm giàu, chia sẻ khó khăn với đồng bào, gắn kết yêu thương, trau dồi văn hoá, tri thức trong nước và quốc tế.
Tôi cho rằng, nhiệm vụ của văn hóa trong kỷ nguyên số không phải là ngăn cản, mà là hướng dẫn, truyền cảm hứng. Nói cho cùng, văn hóa là cội nguồn, là nền móng. Nếu nền móng vững chắc, thì dù là trong thế giới thật hay thế giới số, chúng ta cũng không đánh mất mình. Điều quan trọng nhất bây giờ là bồi dưỡng con người có văn hóa để sống có trách nhiệm, cả ở đời thực và trên không gian mạng.
NĐT: Trong thế giới toàn cầu hóa, văn hóa đang bị “pha loãng” và cạnh tranh khốc liệt. Theo ông, Việt Nam nên định vị thương hiệu văn hóa của mình như thế nào để vừa giữ gìn bản sắc, vừa hội nhập và lan tỏa?
Ông Lê Doãn Hợp: Đây là một vấn đề rất quan trọng, bởi lẽ trong thời đại hội nhập sâu rộng như hiện nay, thương hiệu văn hóa chính là “tấm hộ chiếu mềm”, là “bùa hộ mệnh” của mỗi quốc gia. Toàn cầu hóa giống như một dòng chảy mạnh. Nếu ta không có nền tảng vững chắc, không có bản sắc rõ ràng, sẽ dễ bị cuốn trôi hoặc hòa tan. Ngược lại, nếu ta có nội lực, biết mình là ai, mình có gì đặc biệt, thì chính dòng chảy ấy sẽ là con sông lớn để ta vươn ra biển rộng. Cho nên, giữ gìn bản sắc và hội nhập quốc tế không phải là hai chiều ngược nhau, mà là hai vế cần thiết của một hành trình trưởng thành về văn hóa.
Việc định vị thương hiệu văn hóa Việt Nam trước hết phải từ chính những giá trị Việt đích thực. Đó là tinh thần yêu nước, nhân nghĩa, hiếu học, cần cù, sáng tạo, khoan dung, biết mình biết người. Đó là một dân tộc đã vượt qua chiến tranh, giữ vững độc lập, và giờ đây đang bước đi trên con đường phát triển bền vững bằng chính khát vọng hòa bình và ý chí vươn lên.
Thương hiệu văn hóa không chỉ nằm ở áo dài, nón lá,…mà phải được nhìn nhận trong toàn diện cách Việt Nam đối thoại với thế giới, cách ứng xử của người Việt trong các vấn đề toàn cầu, cách người Việt góp phần vào những giá trị nhân loại đang xây dựng.
Chúng ta cần nâng tầm văn hóa từ biểu tượng cảm tính sang chiến lược quốc gia. Muốn làm được điều đó, trước hết phải có chính sách mạnh mẽ trong phát triển công nghiệp văn hóa, kinh tế sáng tạo; phải biết chuyển đổi những giá trị văn hóa thành sản phẩm có thể lan tỏa, tiêu thụ, có giá trị kinh tế và giá trị tinh thần song hành. Thế giới biết đến Nhật Bản qua tinh thần võ sĩ đạo, Hàn Quốc qua làn sóng Hallyu, Trung Quốc qua sức mạnh điện ảnh và triết lý Khổng Tử. Việt Nam hoàn toàn có thể đi lên từ sức mạnh mềm văn hóa nếu chúng ta kiên trì xây dựng một thương hiệu đặc sắc, đậm đà bản sắc dân tộc và giàu trí tuệ.
Muốn vậy, chúng ta phải đầu tư từ gốc: từ giáo dục, từ truyền thông, từ chính sách văn hóa. Phải tôn vinh những giá trị thật, nhân cách thật, tài năng thật. Phải khơi nguồn cảm hứng từ những điều bình dị nhất nhưng có sức lan tỏa mạnh mẽ nhất.
Tôi luôn tin rằng một dân tộc có bản sắc, có văn hóa, có khát vọng thì đi đâu, làm gì cũng sẽ được tôn trọng. Đó chính là nền tảng để có một thương hiệu quốc gia Việt Nam bền vững.
NĐT: Sau 80 năm lập quốc và 40 năm đổi mới, đất nước đang đứng trước khởi điểm lịch sử mới để bước vào một giai đoạn phát triển mạnh mẽ. Cần định vị văn hóa như thế nào trong bối cảnh chung đó?
Ông Lê Doãn Hợp: Ngoài việc tiếp tục khẳng định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là hồn cốt của dân tộc, thì trong bối cảnh phát triển mới, tôi cho rằng cần phải nâng tầm nhận thức và hành động, coi văn hóa là nguồn lực, là tài nguyên đặc biệt quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội một cách bền vững.
Tổng Bí thư Tô Lâm và Phu nhân cùng Tổng thống Pháp Emmanuel Macron và Phu nhân đến thăm Văn Miếu - Quốc Tử Giám, tháng 5-2025.
Chúng ta thường nói văn hóa là tiềm năng, thế mạnh. Nhưng tiềm năng thì chỉ có giá trị khi nó được biến thành của cải vật chất và tinh thần cụ thể. Do đó, điều đất nước cần lúc này là một chiến lược phát triển công nghiệp văn hóa một cách thực chất và hiệu quả, với các sản phẩm văn hóa đặc sắc, có giá trị kinh tế cao, có thương hiệu quốc gia, đủ sức vươn ra thế giới.
Việt Nam có lịch sử ngàn năm, bản sắc phong phú, di sản đồ sộ, con người thông minh, sáng tạo, nghĩa là đã có một “mỏ vàng văn hóa”. Vấn đề là phải biết khai thác để văn hóa không chỉ là vốn quý của quá khứ, mà còn là động lực sinh lợi của tương lai.
Tôi luôn cho rằng, phát triển kinh tế bằng con đường văn hóa là một hướng đi thông minh và bền vững. Chúng ta phải chuyển từ nhận thức “văn hóa phục vụ kinh tế” sang tầm nhìn “kinh tế phát triển trên nền tảng văn hóa”. Tức là không chỉ tiêu tiền cho văn hóa, mà còn làm ra tiền từ văn hóa, làm giàu từ văn hóa.
Thực tế đã chứng minh, nhiều quốc gia như Mỹ, Anh, Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc… đều đã làm giàu rất thành công từ văn hóa. Việt Nam hoàn toàn có thể làm được điều đó, nếu chúng ta xem văn hóa là động lực phát triển.
NĐT: Theo ông, đâu là điều cần làm để thực sự “làm giàu từ văn hóa”?
Ông Lê Doãn Hợp: Muốn làm giàu từ văn hóa, trước hết phải làm cho văn hóa trở thành một lĩnh vực có thể đầu tư, có thể sinh lời, có thể cạnh tranh sòng phẳng trên thị trường trong nước và quốc tế. Nói cách khác, phải tạo điều kiện để văn hóa trở thành một ngành kinh tế thực thụ, chứ không chỉ là hoạt động tinh thần mang tính bao cấp.
Muốn vậy, điều đầu tiên cần làm là tháo gỡ những rào cản về cơ chế, chính sách. Không thể phát triển văn hóa với một tư duy quản lý lạc hậu, thủ tục phiền hà, phân bổ ngân sách dàn trải mà không gắn với hiệu quả. Cần có một khung thể chế mở, thông thoáng, đủ độ tin cậy và hấp dẫn để xã hội, nhất là khu vực tư nhân, mạnh dạn đầu tư vào lĩnh vực văn hóa.
Tôi vẫn luôn nói: muốn phát triển, phải huy động được sức mạnh toàn dân. Văn hóa không thể và không phải là việc riêng của Nhà nước, mà cần sự tham gia của toàn xã hội.
Nhà nước giữ vai trò kiến tạo, dẫn dắt, đảm bảo nguyên tắc. Nhưng thành công của công nghiệp văn hóa phải đến từ sức sáng tạo của người dân và sự đầu tư của xã hội, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân. Phải biến những ý tưởng sáng tạo thành sản phẩm hàng hóa văn hóa như phim ảnh, âm nhạc, thời trang, thiết kế, trò chơi, ẩm thực, du lịch di sản… có chất lượng, có bản sắc, có giá trị kinh tế cao.
Tất nhiên, phát triển văn hóa dù theo cơ chế thị trường cũng không được buông lỏng nguyên tắc. Cái gì đi ngược lại thuần phong mỹ tục, làm xói mòn bản sắc, gây độc hại về tư tưởng, về đạo đức thì không nên cổ vũ, không thể phát triển.
Tóm lại, muốn làm giàu từ văn hóa, cần ba yếu tố đồng hành: cơ chế thông thoáng, doanh nghiệp ủng hộ, toàn dân vào cuộc. Thiếu một trong ba, sẽ khó thành công. Và tôi tin, nếu có chiến lược đúng và quyết tâm cao, thì Việt Nam không chỉ giữ được bản sắc mà còn đủ sức đưa văn hóa trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn, một thương hiệu quốc gia có tầm vóc quốc tế.
NĐT: Văn hóa gắn liền với sự ra đời cũng như trường tồn của dân tộc Việt Nam. Nói như vậy để thấy văn hóa đã có một lịch sử lâu dài và 80 năm chỉ là một mốc nhỏ trong hành trình ấy. Là một người có nhiều tâm huyết dành cho văn hóa, cho đất nước, ông có kỳ vọng gì ở ngành Văn hóa trong những chặng đường phía trước?
Ông Lê Doãn Hợp: Nhìn lại 80 năm qua, đặc biệt là 40 năm đổi mới, tôi cho rằng điều cấp bách hiện nay là kiến tạo một triết lý văn hóa cho phát triển bền vững và hùng cường. Muốn vậy, trước hết phải đổi mới tư duy về văn hóa, không coi văn hóa chỉ là một lĩnh vực đơn lẻ, mà là hệ điều hành của toàn bộ đời sống xã hội, là nền tảng, là động lực, là mục tiêu của mọi phát triển.
Chúng ta thường nói kinh tế là công cụ, chính trị là phương tiện, nhưng đích đến phải là văn hóa, là nhân cách, là phẩm giá, là hồn cốt của dân tộc. Trong giai đoạn phát triển mới, văn hóa phải trở thành kinh tế, thành chính trị, thành triết lý giữ nước và phát triển đất nước hùng cường. Càng hội nhập càng phải độc lập và cốt cách văn hóa là căn bản nhất.
Ngành Văn hóa hôm nay, và những người làm văn hóa, phải gánh vác sứ mệnh lịch sử là giữ gìn, phát triển và nâng tầm bản sắc Việt Nam. Phải đưa văn hóa từ tiềm năng trở thành giá trị, từ truyền thống trở thành sức mạnh, từ bản sắc trở thành thương hiệu quốc gia.
NĐT: Xin cảm ơn ông về cuộc trao đổi.