img

Sau khi thống nhất đất nước năm 1975, Việt Nam bước vào giai đoạn kiến thiết trong muôn vàn khó khăn. Cho đến những năm 1980, tình hình càng trở nên ngặt nghèo hơn khi nước ta đổi mặt với 3 thách thức lớn.

Đó là tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng, lạm phát lên tới gần 800% năm 1986; đất nước bị bao vây về chính trị, cấm vận về kinh tế trong khi các nước xã hội chủ nghĩa, kể cả Liên Xô lẫn Trung Quốc, vốn là nguồn cung cấp tài trợ cho nước ta đều theo nhau rơi vào khủng hoảng và năm 1991 Liên Xô tan rã, Hội đồng tương trợ kinh tế và Hiệp ước Vacsava giải thể. Mà theo lời của cố Phó Thủ tướng Vũ Khoan, đây là "tình trạng ngàn cân treo sợi tóc, đặt ra yêu cầu đổi mới hay là chết!".

Giữa tình cảnh đó, Đại hội VI của Đảng đã tạo ra bước ngoặt lịch sử, chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, coi trọng sản xuất hàng hóa và các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Mục tiêu đặt ra tại Đại hội là "chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; giữ vững ổn định chính trị - xã hội; sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển".

Như vậy, Đảng và Nhà nước đã đổi mới tư duy, hội nhập kinh tế quốc tế được xác định là động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng và chuyển đổi mô hình phát triển.

Những "dấu chân" mở lối, đưa kinh tế Việt Nam hội nhập toàn cầu- Ảnh 1.

Trong tiến trình đó, việc ký kết Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ (BTA) và tham gia Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) được coi là hai dấu mốc quan trọng nhất, thúc đẩy tiến trình "mở cửa" giao thương giữa Việt Nam và thế giới.

Nói vậy bởi lẽ, Mỹ là nền kinh tế số một thế giới, có sức chi phối mạnh mẽ không chỉ đối với dòng chảy thương mại toàn cầu mà còn đối với các thiết chế kinh tế quốc tế, trong đó có WTO.

"Thực tế cho thấy, hầu như không quốc gia nào có thể gia nhập WTO nếu không nhận được sự đồng thuận từ phía Mỹ. Vì vậy, việc thâm nhập được vào thị trường Mỹ mang ý nghĩa chiến lược đối với Việt Nam", ông Nguyễn Đình Lương – nguyên Trưởng đoàn Đàm phán BTA nhận định.

Những "dấu chân" mở lối, đưa kinh tế Việt Nam hội nhập toàn cầu- Ảnh 2.

Theo đó, khi khai thông được cánh cửa Mỹ, Việt Nam sẽ thuận lợi hơn trong việc mở rộng sang thị trường châu Âu, tiến tới gia nhập WTO và hội nhập sâu rộng với kinh tế thế giới

Hồi tưởng lại về những năm 1995, khi ấy Việt Nam và Mỹ chính thức tuyên bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa hai nước, đặt nền móng cơ sở cho việc tiến hành đàm phán BTA.

Đến năm 1996, ông Nguyễn Đình Lương được giao nhiệm vụ Trưởng đoàn đàm phán BTA. Bối cảnh khởi động đàm phán khi ấy rất đặc biệt: mối quan hệ Việt – Mỹ mới được bình thường hóa, song vẫn còn bị phủ bóng bởi hai chữ "cựu thù". Nước Mỹ là kẻ thất bại trong chiến tranh, nhưng Việt Nam cũng là bên chịu mất mát, đau thương không kể xiết. Niềm tin giữa hai bên gần như ở mức thấp nhất.

Những "dấu chân" mở lối, đưa kinh tế Việt Nam hội nhập toàn cầu- Ảnh 3.

Ngày 11/7/1995, Tổng thống Mỹ Bill Clinton tuyên bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam.

Ông Lương kể lại, câu nói của cựu Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger: "Nếu chúng ta không thắng Việt Nam trong chiến tranh thì phải thắng khi hòa bình" đã gieo trong lòng nhiều người Việt sự nghi ngại, khiến không ít ý kiến cho rằng BTA chỉ là "một âm mưu của Mỹ". Hay lại có người quy cho việc tiến hành thỏa thuận này chính là "tội rước Mỹ vào phá Chủ nghĩa Xã hội".

"Khi ấy, chúng ta gần như không biết gì về Mỹ. Thông tin khan hiếm, mọi thứ đều quá xa vời. Về pháp luật thì chúng ta vừa thiếu, vừa khác biệt lớn với Mỹ, trong khi số người Việt am hiểu luật Mỹ chỉ đếm trên đầu ngón tay", ông nói.

Bức tranh so sánh kinh tế lúc đó càng cho thấy khoảng cách khổng lồ: GDP Việt Nam mới chỉ khoảng 33 tỷ USD, trong khi Mỹ đã vượt 10.000 tỷ USD. Ở Việt Nam, 70% dân số sống ở nông thôn, gắn với cái cày, cái cuốc, con trâu. Lúc đó, Việt Nam thậm chí chưa có nổi 1km đường cao tốc.

Còn ở Mỹ, chỉ 2% dân số làm nông nghiệp (1% trực tiếp), nhưng sở hữu nền nông nghiệp hiện đại bậc nhất thế giới: lúa mì và bông chiếm 28% thị trường toàn cầu, đậu tương và ngô chiếm tới 57–58%.

Ở phía bên kia, Mỹ cũng không dễ dàng hơn. Trước khi khởi động đàm phán, họ đã tổ chức nhiều hội thảo, mời các chuyên gia hàng đầu phân tích về Việt Nam. Thế nhưng, ngay cả các chuyên gia Mỹ cũng mù mờ, không nắm rõ nền kinh tế Việt Nam ra sao, lợi thế là gì. Sự thiếu thông tin từ cả hai phía đã khiến bước khởi đầu của quá trình đàm phán đầy những khoảng trống và hoài nghi.

Những "dấu chân" mở lối, đưa kinh tế Việt Nam hội nhập toàn cầu- Ảnh 4.

Ông Nguyễn Đình Lương – Nguyên Trưởng đoàn Đàm phán BTA (Ảnh: Hải Long).

Theo ông Nguyễn Đình Lương, nền tảng đàm phán khi ấy dựa trên khung pháp lý và nguyên tắc của theo tiêu chuẩn quốc tế, thậm chí là những tiêu chuẩn cao nhất lúc bấy giờ.

Các nguyên tắc như công khai, minh bạch, bình đẳng không phân biệt đối xử giữa hàng hóa nội – ngoại, giữa doanh nghiệp trong và ngoài nước… là những yêu cầu hoàn toàn mới, thách thức một nền kinh tế vừa rời khỏi bao cấp.

Rõ ràng, đây là một cuộc đàm phán vô cùng khó khăn đối với Việt Nam. Các nội dung được đặt lên bàn không chỉ đơn thuần là thương mại, mà còn chạm tới cả quan điểm, đường lối phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Những cam kết đó buộc chúng ta phải đối diện với sự thay đổi sâu rộng, va chạm đến toàn bộ hệ thống pháp luật khi ấy.

Những "dấu chân" mở lối, đưa kinh tế Việt Nam hội nhập toàn cầu- Ảnh 5.

Đặc biệt, khi nhắc đến câu chuyện về ông Bill Clinton - Tổng thống Mỹ lúc bấy giờ, ông Lương bất giác đặt tay lên ngực và từ từ kể lại về "nỗi đau" trong quá trình đàm phán BTA.

Hôm đó, tại một buổi hội thảo về BTA, ông đã bày tỏ ý kiến riêng của mình về Tổng thống Bill Clinton: "Tôi đề nghị nên tranh thủ ký thỏa thuận trong thời Tổng thống Bill Clinton chưa có Tổng thống nào đối xử với Việt Nam tốt hơn Bill Clinton trong lịch sử quan hệ Việt – Mỹ ", rồi đưa ra những dẫn chứng. Và ông Lương nhận được ngay nhận xét: "Lập trường giai cấp mơ hồ. Đã là trùm đế quốc thì làm gì có chuyện tốt với Việt Nam?".

Trưởng đoàn đàm phán BTA chia sẻ, ông biết câu nói đó là bình thường với nhận thức chung thời điểm ấy. Thế nhưng, điều khiến ông Lương buồn là "cuộc hội thảo đó thành công cốc bởi không ai lại muốn mình có "lập trường giai cấp mơ hồ" cả".

Tuy nhiên, trước những khoảng cách tưởng chừng không thể san lấp ấy, đoàn đàm phán Việt Nam chọn cách đi "chậm mà chắc".

"Chúng ta phải vừa học vừa đàm phán, vừa sửa luật trong nước để tiệm cận chuẩn mực quốc tế. Không thể đòi hỏi mọi thứ thay đổi trong một sớm một chiều", ông Lương nói.

Đó cũng chính là triết lý giúp Việt Nam đứng vững trước đối tác có tiềm lực áp đảo. Mỗi vòng đàm phán không chỉ là trao đổi với Mỹ, mà còn là cuộc tự điều chỉnh trong nước. Như lời ông Lương, đó là "hành trình vừa đàm phán với người khác, vừa đàm phán với chính mình".

Sau gần 5 năm đàm phán căng thẳng, trải qua hàng chục vòng thương thảo cùng vô số bản dự thảo, văn kiện và thỏa thuận trung gian, Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ đã được ký kết vào ngày 13/7/2000, có hiệu lực từ cuối năm 2001.

Ngay sau khi Hiệp định được ký kết, Quốc hội khóa 2001-2005 đã phải xây dựng mới, sửa đổi và bổ sung tới 137 dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết để từng bước đưa hệ thống pháp luật Việt Nam tiệm cận với "luật chơi" của WTO và chuẩn mực quốc tế. Hàng loạt đạo luật quan trọng như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Luật Đầu tư, Luật Thương mại, Luật Sở hữu trí tuệ… được ban hành hoặc chỉnh sửa.

Những "dấu chân" mở lối, đưa kinh tế Việt Nam hội nhập toàn cầu- Ảnh 6.

Không chỉ dừng ở đó, toàn bộ các ngành dịch vụ vốn chưa có luật như tài chính, ngân hàng, viễn thông, giao thông vận tải, du lịch… cũng phải viết mới theo cơ chế thị trường, đồng thời xác định lại vai trò của người dân. Nếu trước kia doanh nghiệp hay cá nhân muốn kinh doanh gì đều phải "xin - cho", thì sau Hiệp định, nguyên tắc đã thay đổi căn bản: người dân và doanh nghiệp được quyền tự do đầu tư, kinh doanh mọi lĩnh vực mà pháp luật không cấm.

Khi nhìn lại chặng đường gian khó mà đầy tự hào ấy, Trưởng đòa đàm phán Nguyễn Đình Lương xúc động nói: "Sức nặng pháp lý của BTA đã góp phần giúp Việt Nam làm vỡ tảng băng trì trề của nền kinh tế bao cấp; làm nghiêng đổ những chiếc cột đồng chống đỡ nền kinh tế "xin-cho" không hiệu quả; bẻ gãy chiếc then cài cổng cho gió WTO thổi vào từng phòng họp, hội trường, từng giảng đường, thư viện; tháo tung chiếc hộp pháp lý được sản xuất bằng chất liệu độc quyền và phân biệt đối xử".

Theo đó, chỉ sau một năm ký hiệp định, xuất khẩu của Việt Nam đã tăng gấp đôi, Mỹ trở thành thị trường lớn nhất của chúng ta. Cũng từ đây, các doanh nghiệp trên thế giới nhanh chóng tràn vào Việt Nam đầu tư, kinh doanh. Những điều này đã giúp tổng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam mức 45,5 tỷ USD tại giai đoạn 1991-2000 nhanh chóng tăng lên 58,5 tỷ USD vào giai đoạn 2001-2010. Mà theo lời ông Lương, "đây là những con số tăng trưởng nhanh chóng, ngoài sức tưởng tượng của tôi".

Những "dấu chân" mở lối, đưa kinh tế Việt Nam hội nhập toàn cầu- Ảnh 7.

Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, sau cánh cửa đầu tiên của BTA thì nhiệm vụ quan trọng tiếp theo chính là việc đàm phán gia nhập WTO. Cho đến hiện tại, WTO vẫn là tổ chức quốc tế duy nhất điều chỉnh các quy tắc thương mại toàn cầu, gồm 166 quốc gia thành viên, chiếm hơn 90% thương mại toàn cầu.

Nếu BTA là cánh cửa đầu tiên mở đường cho Việt Nam hội nhập sâu rộng, thì tiến trình gia nhập WTO chính là hành trình "bước ra biển lớn" thực sự.

Ngay từ năm 1995, Việt Nam đã nộp đơn xin gia nhập WTO. Đây là một cuộc đàm phán lịch sử, kéo dài suốt 11 năm, với hàng trăm phiên họp đa phương với 149 nước và vùng lãnh thổ, cùng 30 cuộc đàm phán song phương về mở cửa thị trường, trả lời 3.316 câu hỏi về cơ chế chính sách của Việt Nam, các vấn đề sửa đổi hệ thống pháp luật.

Khi đó, nền kinh tế nước ta mới bước ra khỏi cơ chế bao cấp, độ "mở" còn hạn chế, khung pháp lý chưa tương thích với chuẩn mực quốc tế, đội ngũ chuyên gia am hiểu luật lệ và đàm phán thương mại quốc tế lại rất mỏng. Trong khi đó, WTO đặt ra những yêu cầu mới mẻ và phức tạp, đòi hỏi phải vừa học hỏi, vừa từng bước thích nghi.

Những "dấu chân" mở lối, đưa kinh tế Việt Nam hội nhập toàn cầu- Ảnh 8.

Khác với BTA, lúc này Việt Nam và WTO không đàm phán việc xây dựng pháp lý nữa, vì Việt Nam xin gia nhập WTO thì mặc nhiên phải chấp nhận và chấp hành mọi quy định của Tổ chức. Do đó, cuộc đàm phán WTO thực chất là một cuộc tổng rà soát lại tất cả luật lệ của Việt Nam, còn chỗ nào ngược với WTO thì sửa đổi.

Tuy nhiên, phải đến nhiều năm sau, khi Việt Nam đẩy mạnh hội nhập qua APEC, ASEM, ASEAN…, đồng thời khẩn trương xây dựng và sửa đổi hàng loạt bộ luật cho phù hợp với thông lệ quốc tế, tiến trình đàm phán WTO mới có chuyển biến rõ rệt.

Đây là một trong những cuộc đàm phán dài nhất lịch sử WTO, đoàn đàm phán Việt Nam do nguyên Thứ trưởng Bộ Thương mại Lương Văn Tự dẫn dắt, thường xuyên nhận được sự chỉ đạo trực tiếp từ lãnh đạo Chính phủ, cùng sự hỗ trợ của các chuyên gia quốc tế, kể cả nguyên Tổng Giám đốc GATT Arthur Dunkel.

Trong quá trình đàm phán, Việt Nam đang là nước đang phát triển ở trình độ thấp, nền kinh tế nước ta trong quá trình chuyển đổi từ quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường. Vì vậy, chủ yếu chúng ta vẫn là một nền kinh tế nông nghiệp, xuất khẩu gạo, cà phê, điều, thủy sản… trình độ sản xuất thấp, phân tán và còn nhỏ lẻ.

Những "dấu chân" mở lối, đưa kinh tế Việt Nam hội nhập toàn cầu- Ảnh 9.

Mặt khác những mặt hàng này cũng có những rủi ro do thiên tai gây ra, nên Nhà nước vẫn phải có hình thức "trợ giá" nông sản. Đây là một trong những vấn đề mà hầu hết các đối tác trong quá trình đàm phán song phương đều "nâng lên đặt xuống" với lo ngại nông sản Việt Nam sẽ "tràn" vào thị trường của họ.

Đặc biệt, có những cuộc đàm phán song phương với Mỹ, Liên minh châu Âu hay Trung Quốc luôn căng thẳng, xoay quanh biểu thuế, dịch vụ ngân hàng – tài chính, viễn thông… Có nước chỉ mất ba phiên để kết thúc, nhưng cũng có đối tác khiến Việt Nam phải kéo dài tới 13 phiên.

Đến cuối năm 2005, Việt Nam vẫn chưa được vào WTO khiến nhiều người lo lắng và cho rằng chiến thuật đàm phán sai lầm.

Đàm phán với một nước đã mỏi mệt, với 28 nước càng không dễ. Khi mình muốn đàm phán thì anh này bận, anh kia lại bảo tôi không có thì giờ.

Bên hành lang Quốc hội khi đó, cố Phó thủ tướng Vũ Khoan cho biết Việt Nam cố gắng tối đa nhưng không phải bằng mọi giá để vào WTO. Việt Nam không thể chấp nhận những việc không làm được và những điều có khả năng làm đổ vỡ nền kinh tế, chỉ chấp nhận những cam kết có thể thực thi.

"Đàm phán với một nước đã mỏi mệt, với 28 nước càng không dễ. Khi mình muốn đàm phán thì anh này bận, anh kia lại bảo tôi không có thì giờ", ông kể.

Năm 2006, sau nhiều nỗ lực không ngừng nghỉ để hoàn thành khối lượng công việc khổng lồ, Việt Nam hoàn tất đàm phán gia nhập WTO, mở cánh cổng lớn để hội nhập với thế giới.

Những "dấu chân" mở lối, đưa kinh tế Việt Nam hội nhập toàn cầu- Ảnh 10.

Đánh giá về việc gia nhập WTO, cố Phó Thủ tướng Vũ Khoan từng chia sẻ với Nguời Đưa Tin, đây thực sự là một bước tiến quan trọng trong tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam.

"Gia nhập WTO, Việt Nam được khá nhiều. Một là, thị trường mở rộng, xuất khẩu được nhiều hàng hóa và dịch vụ; hai là, thu hút được nhiều vốn đầu tư và cả tài trợ của nước ngoài; ba là, hai nhân tố trên góp phần tạo nhiều công ăn việc làm, phát triển kinh tế - xã hội và bốn là, vị thế quốc tế của nước ta được nâng cao", ông Vũ Khoan nói.

Những "dấu chân" mở lối, đưa kinh tế Việt Nam hội nhập toàn cầu- Ảnh 11.

Khi nhìn lại, việc ký Hiệp định BTA với Mỹ, đặc biệt là sự kiện Việt Nam gia nhập WTO đã phá vỡ "tảng băng" trì trệ của nền kinh tế quan liêu bao cấp, từng bước xây dựng một hệ thống pháp luật công khai, minh bạch, không phân biệt đối xử để hội nhập vào kinh tế thế giới. Điều này cũng có ý nghĩa tạo lối mở cho nền kinh tế theo cơ chế thị trường, định hướng Xã hội Chủ nghĩa ngày càng hội nhập quốc tế sâu rộng.

Cũng từ đây, kinh tế Việt Nam bước vào thời kỳ hội nhập sâu rộng, ghi dấu ấn bằng những bước tăng trưởng bứt phá, đưa đất nước vươn lên nhóm nền kinh tế phát triển năng động hàng đầu khu vực.

Tính đến hiện tại, 17 Hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương (FTA) được ký kết và có hiệu lực đến thời điểm này giúp Việt Nam được hưởng ưu đãi thuế quan sâu rộng, thu hút được dòng vốn FDI, nâng cao năng lực công nghiệp và dịch vụ, mở rộng đáng kể thị trường xuất khẩu, tạo xung lực cho tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ.

Từ một nền kinh tế còn khiêm tốn với kim ngạch xuất khẩu hơn 48 tỷ USD vào năm 2007, đến năm 2024 con số ấy đã đạt 405,53 tỷ USD, gấp hơn 8 lần, đưa Việt Nam trở thành một trong 20 nền kinh tế thương mại lớn nhất thế giới, với xuất siêu 24,77 tỷ USD.

Những "dấu chân" mở lối, đưa kinh tế Việt Nam hội nhập toàn cầu- Ảnh 12.

Trong đó, ngành dệt may nổi lên như một biểu tượng bứt phá, đạt kim ngạch 44 tỷ USD năm 2024, tăng 11% so với năm trước, đưa Việt Nam vươn lên vị trí thứ hai toàn cầu, chỉ sau Trung Quốc và vượt Bangladesh.

Cơ cấu xuất khẩu cũng thay đổi căn bản: từ chỗ chủ yếu dựa vào nông – thủy sản, nay các sản phẩm công nghiệp chế biến, công nghệ cao như điện thoại, linh kiện điện tử, máy móc, thiết bị đã trở thành nhóm hàng chủ lực, gắn Việt Nam vào sâu hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Không chỉ thương mại, Việt Nam còn trở thành điểm đến hấp dẫn của các dòng vốn đầu tư quốc tế. Tính đến cuối năm 2024, cả nước có hơn 42.000 dự án FDI còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký gần 503 tỷ USD, vốn thực hiện khoảng 322,5 tỷ USD. Sự hiện diện của các tập đoàn lớn như Samsung, Intel, LG, Foxconn… đã tạo động lực lan tỏa cho công nghiệp phụ trợ, chuyển giao công nghệ, đồng thời nâng cao năng lực quản trị của doanh nghiệp trong nước.

Về nông nghiệp, Việt Nam đã vươn lên thành cường quốc nông sản, có mặt trên hơn 180 quốc gia và vùng lãnh thổ, kể cả các thị trường khó tính. Việt Nam đứng trong nhóm ba nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, là nước xuất khẩu cà phê lớn thứ hai, hạt điều chiếm trên 50% tổng xuất khẩu toàn cầu, hồ tiêu chiếm 40% sản lượng thế giới, trong khi thủy sản liên tục đạt giá trị xuất khẩu cao.

Những "dấu chân" mở lối, đưa kinh tế Việt Nam hội nhập toàn cầu- Ảnh 13.
Những "dấu chân" mở lối, đưa kinh tế Việt Nam hội nhập toàn cầu- Ảnh 14.
Những "dấu chân" mở lối, đưa kinh tế Việt Nam hội nhập toàn cầu- Ảnh 15.
Những "dấu chân" mở lối, đưa kinh tế Việt Nam hội nhập toàn cầu- Ảnh 16.

Từ vị trí ngặt nghèo, đến nay Việt Nam đã vươn lên vị thế một trong những nền kinh tế tăng trưởng năng động hàng đầu thế giới. GDP của Việt Nam từ khoảng 8,2 tỷ USD năm 1986 đã tăng lên trên 476 tỷ USD năm 2024, gấp gần 60 lần. Mức tăng trưởng này đưa Việt Nam vào nhóm những nền kinh tế có tốc độ phát triển ấn tượng hàng đầu trong nhiều thập kỷ qua. Từ vị trí cuối bảng thời điểm mới gia nhập ASEAN (năm 1995), sau 30 năm, Việt Nam đã vươn lên vị trí thứ 4 trong khối (năm 2024).

Nhìn lại chặng đường từ BTA đến WTO, từ những bước đi đầu tiên trong hội nhập đến vị thế ngày nay, có thể thấy mỗi thành quả đều được trả giá bằng nỗ lực bền bỉ và trí tuệ tập thể. Nhưng quan trọng hơn, đó không chỉ là những mốc son ở quá khứ, mà còn là bàn đạp để mở ra tương lai.

Bước sang kỷ nguyên mới, chúng ta càng thêm tin tưởng về khát vọng một Việt Nam công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao vào năm 2045. Đó không chỉ là mục tiêu kinh tế, mà còn là khát vọng vươn tầm dân tộc, khẳng định bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam trong dòng chảy toàn cầu hóa.

Những "dấu chân" mở lối, đưa kinh tế Việt Nam hội nhập toàn cầu- Ảnh 17.

Thực hiện: Thanh Loan 

Thiết kế: Quỳnh Chi

Hình ảnh: Hải Long

NGUOIDUATIN.VN | Thứ Ba, 30/9/2025 | 08:00

Bạn cần đăng nhập để thực hiện chức năng này!

Bình luận không đăng nhập

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.