Từ ngôi đền thiêng

Nguyễn Ngọc Phú

Tôi hỏi Dung: “Sao người ta gọi đền thờ cố Tổng Bí thư là đền thiêng?”, chị Dung nói: “Thiêng ở đây là tình cảm thiêng liêng trong lòng mỗi người anh ạ. Những lần về, bao giờ cố Tổng Bí thư cũng dành thời gian trò chuyện với dân làng".

Nhân kỷ niệm 113 năm ngày sinh cố Tổng Bí thư Lê Duẩn, chúng tôi lên hồ Kẻ Gỗ thăm ngôi đền thiêng trên đảo Lê Duẩn. Cùng đi có chị Dung, Phó Trưởng Ban tuyên giáo huyện ủy Cẩm Xuyên và một nhân chứng sống rất quan trọng là bác Đào Văn Tinh, nguyên Giám đốc Sở Thủy lợi Nghệ Tĩnh (cũ) và nay là Chủ tịch hội Cựu TNXP ở Hà Tĩnh. Mặc dù tuổi cao nhưng ông vẫn vui vẻ nhận lời đi cùng đoàn để cung cấp những tư liệu mới nhất, chính xác nhất về quá trình xây hồ Kẻ Gỗ cũng như đền thờ cố Tổng Bí thư Lê Duẩn.

Ngôi đền thờ nhìn từ trên cao

Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn sinh ngày 7/4/1907 tại làng Bích La, xã Triệu Đông, huyện Triệu Phong (Quảng Trị) nhưng quê gốc ở làng Phương Lai, xã Cẩm Duệ, huyện Cẩm Xuyên (Hà Tĩnh). Ở làng này còn có Am Tháp và đền thờ Lê Am, đó chính là liệt tổ của cố Tổng Bí thư, được xây dựng cách đây hơn 500 năm.

Trên đường đi lên hồ Kẻ Gỗ, bác Đào Văn Tinh hỏi tôi:

- Chú có biết ai là người đầu tiên gợi ý về xây hồ Kẻ Gỗ không?

Thấy tôi dường như chưa biết và đang tò mò muốn tìm hiểu, vị cán bộ già trang trọng nói một cách rành rọt:

- Đó là Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Chúng tôi cùng ngạc nhiên thốt lên: Bác Hồ! Đúng đây là một thông tin mới mẻ thật! Bác Tinh kể: “Thật ra thì từ năm 1932, thực dân Pháp đã cho khảo sát xây dựng hồ Kẻ Gỗ. Hồ có hồ sơ kỹ thuật từ năm 1934 đến 1936, Pháp bắt đầu tiến hành làm thủy lợi. Nhưng sau đó phải dừng lại vì chiến tranh thế giới thứ hai. Tưởng mọi chuyện quên đi nhưng ngày 15/6/1957 trong chuyến về thăm Hà Tĩnh, khi nói chuyện với cán bộ lãnh đạo tỉnh, Bác Hồ đã nhắc nhở Hà Tĩnh cần lục lại và nghiên cứu hồ sơ hồ Kẻ Gỗ để khi nào có thời cơ thì tiến hành xây dựng. Mới biết tầm nhìn chiến lược thiên tài của Bác ngay từ lúc ấy đã biết lo cho mai sau…”

Hôm Bác Hồ về thăm còn có ông Trần Đăng Khoa, lúc đó là Bộ trưởng Xây dựng Thủy lợi và Kiến trúc đã giao cho viện thủy lợi lục tìm hồ sơ thời Pháp. Đặc biệt, sau đó Tổng Bí thư Lê Duẩn đã trực tiếp nhiều lần làm việc với tỉnh Nghệ Tĩnh để bàn việc xây hồ.

Ông Đào Văn Tinh như được đánh thức dậy những kỷ niệm ký ức ban đầu xây hồ Kẻ Gỗ sôi nổi kể cho chúng tôi: “Các bạn có biết không, thời điểm ấy cả khu vực hồ Kẻ Gỗ đồi núi trập trùng, sương mù dày đặc mù mịt, đêm đêm chỉ nghe tiếng hoẵng kêu. Bốn phía không một ánh đèn, những đêm trời đầy trăng sao: Bò tót, khỉ, hươu, nai, chồn, sóc… thường ra nhảy múa. Tui bây giờ vẫn có sức khỏe đi với đoàn mặc dù tuổi đã ngoài 80 là do ăn nhiều rau tàu bay và cá khe, cá sạch của hồ Kẻ Gỗ trong thời gian làm hồ đó. Hồi đó cũng rất vất vả. Chỉ tính tối thiểu mỗi người cần 0,5 kg gạo và 0,2 lít nước mắm thì với lực lượng lúc đó tôi ước tính mỗi ngày phải cần 8 tấn gạo và 3.000 lít nước mắm. Đó là chưa kể chất đốt, nước sinh hoạt, thuốc men, vải vóc kim chỉ. Mà công cụ làm thì thô sơ chỉ có mấy cái máy xúc, máy đào, còn chủ yếu là sức người với cuốc xẻng, xe cút kít nhưng mà vui, rất vui. Có hai nhạc sĩ không phải quê Hà Tĩnh ở Nghệ An, cách nhau cầu Bến Thủy mà có bài hát hay về Hà Tĩnh. Đó là nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý, ngoài bài về hồ Kẻ Gỗ còn có bài tình ca nổi tiếng “Đi mô cũng nhớ về Hà Tĩnh” và nhạc sĩ An Thuyên với bài “Hà Tĩnh mình thương”. Bài hát “Đi mô cũng nhớ về Hà Tĩnh” nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý viết năm 1974. Lúc đó ông Trần Quang Đạt, Chủ tịch tỉnh bấy giờ mời nhạc sĩ đến tham quan thực tế để viết bài hồ Kẻ Gỗ. Nhạc sĩ cùng đoàn văn công tỉnh do ông Lê Hàm làm Trưởng đoàn đã ở đó 1 tháng. Tối đến nhạc sĩ cùng anh em văn công trải chiếu ngủ ngay dưới thềm một ngôi chùa cạnh đó. Ông Chủ tịch tỉnh đến thăm, thấy chỗ ngủ không được tốt đã bố trí nhạc sĩ ra ở khách sạn bởi ngày đó Nguyễn Văn Tý đã 51 tuổi. Nhưng nhạc sĩ đã từ chối để ở lại được tìm hiểu kĩ hơn không khí lao động ở công trường và bài hát đã ra đời…”.

Chúng tôi ra đảo Lê Duẩn trên chiếc cầu vồng xây bằng bê tông cốt thép nhưng thiết kế rất trang nhã thanh thoát. Một trời non xanh, nước biếc bao la mở rộng ra trước mắt.

Hồ nước khổng lồ dài hơn 30 km với trữ lượng 350 triệu mét khối tưới cho gần 17.000 ha lúa, màu cho các huyện Thạch Hà, Cẩm Xuyên, thành phố Hà Tĩnh và phía Bắc huyện Kỳ Anh. Đây còn là khu bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ được bao phủ bởi rừng kín với nhiều loại cây cho gỗ có tên trong sách đỏ Việt Nam như: Lim xanh, sến mật, gụ, vàng tâm, trầm hương, lát hoa… Tương lai đây sẽ là khu du lịch sinh thái tổng hợp với nhiều loại hình giải trí như đua thuyền, lướt ván, leo núi, câu cá. Đặc biệt điểm nhấn là đảo Lê Duẩn trên đó có đền thờ Lê Duẩn. Để tỏ lòng thành kính và tri ân công lao to lớn của cố Tổng Bí thư Lê Duẩn, được sự thống nhất của gia đình, tỉnh Hà Tĩnh đã quyết định đầu tư xây dựng đền thờ cố Tổng Bí thư tại hòn đảo này từ năm 2011, nhân kỷ niệm 180 năm thành lập tỉnh (1831-2011). Sau ba năm xây dựng, đền thờ hoàn thành và trở thành địa chỉ văn hóa tâm linh hấp dẫn và được khánh thành vào ngày 18/1/2014.

Đền thơ TBT Lê Duẩn

Khi nghe tôi hỏi: “Tại sao hòn đảo này lại được gọi là đảo Lê Duẩn?”

Bác Đào Văn Tinh trầm tư một chút và nhớ lại:

- Hôm Tổng Bí thư về đây đã cùng các đồng chí trong Bộ Tư lệnh Quân khu 4 và đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Trương Kiện đi khảo sát trên hồ. Hiện nay tấm ảnh đen trắng đó còn được trưng bày trong đền thờ cố Tổng Bí thư. Chính xác đó là ngày 2/5/1979 mà hồ thì đã hoàn thành trước đó vào tháng 8/1978. Mấy chiếc thuyền máy rẽ sóng tháp tùng Tổng Bí thư đi một vòng quanh hồ, lúc về đến hòn đảo gần sát bờ này thì trời đã trưa. Tổng Bí thư đề nghị được lên thăm đảo và mắc chiếc võng bạt dã chiến của quân đội nằm nghỉ dưới bóng mát của những tán cây rì rào nắng xanh. Chiếc võng chung chiêng cũng như âm thanh dào dạt của gió, của tiếng chim rừng đã đưa ông vào giấc ngủ nhẹ nhàng, bay bổng giữa vùng đất cội nguồn tiên tổ của ông. Có lẽ trong giấc mơ trưa ấy ông lại nhớ về những tháng ngày hoạt động ở chiến trường Nam Bộ với chiếc thuyền ba lá trên những kênh rạch ngổn ngang sông nước. Rồi những tháng ngày ra chiến khu Việt Bắc dưới những cánh rừng cổ thụ bên cạnh Bác Hồ - vị lãnh tụ kính yêu. Hình như trong tâm hồn các vĩ nhân bao giờ cũng gắn bó yêu quý thiên nhiên. Mỗi cây lá lối cỏ nơi đảo này vẫn còn in bóng dáng cao lớn và bước chân sải nhanh của ông. Tôi chợt nhớ đến câu chuyện của một đồng chí cần vụ thân thiết của ông kể lại: Những lần đi công tác ở cơ sở cách mạng Nam Bộ, bao giờ ông cũng quàng chiếc khăn rằn quen thuộc và rất mê nghe hát cải lương vọng cổ. Người con gái của ông kể rằng: Trưa ngày 30/4/1975 lúc nghe báo tin miền Nam hoàn toàn giải phóng, phía ngoài đường Hà Nội cờ hoa tràn ngập thì trong căn phòng nhỏ trên gác hai , ông ngồi lặng đi đỏ hoe nước mắt. Chắc giờ phút ấy ông đang nhớ về những đồng chí, đồng bào miền Nam gắn bó với quãng đường gian khó nhất của ông lăn lộn thực tế với phong trào kề bên bao hiểm nguy.

TBT Lê Duẩn họp với Tỉnh ủy Nghệ Tĩnh bàn xây hồ Kẻ Gỗ

Đền thờ cố Tổng Bí thư Lê Duẩn tọa lạc trên đỉnh một ngọn đồi. Ngày trước ngọn đồi này cùng nhiều ngọn đồi khác từ bờ ra có thể đi bộ nhưng khi xả nước hồ Kẻ Gỗ ngập tràn thành biển hồ thì ngọn đồi biến thành hòn đảo nhỏ xinh xắn. Từ trên cao nhìn xuống, ngôi đền giống như một đài hoa bát giác tám cạnh. Từ bờ nước lên đền có một con đường bậc tam cấp được lát bằng những khối đá xứ Thanh màu xám vững chãi. Kiến trúc ngôi đền giản dị, mộc mạc nhưng không giản đơn với những hàng cột lim chắc chắn. Trong đền, có bức tượng bán thân của cố Tổng Bí thư nặng hơn 1 tấn bằng đồng. Ở giữa là bàn thờ Tổng Bí thư, hai bên là hai bàn thờ các anh hùng liệt sĩ và các Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Ở đây có nhiều bức ảnh tư liệu quý hình ảnh những lần Tổng Bí thư về thăm. Phía ngoài ngôi đền còn có cây thiên tuế của nguyên Chủ tịch nước Trần Đức Lương và cây bồ đề của nguyên Chủ tịch nước Trương Tấn Sang trồng khi về thăm. Thật lạ, ở đảo này khác với những đảo khác trong lòng hồ là ở đây luôn ríu rít tiếng chim lảnh lót. Đặc biệt là buổi trưa vọng lại tiếng chim cu gáy, giọng chim khi gần khi xa vọng về một thời xa xưa. Người bảo vệ đền ở đây cho biết ngày nào cũng có khách du lịch đến thăm và thắp hương tưởng niệm cố Tổng Bí thư Lê Duẩn.

Chúng tôi trở về Cẩm Duệ và được người bạn đường là chị Dung - Phó Trưởng ban tuyên giáo huyện ủy Cẩm Xuyên, vốn cũng là một cô giáo dạy Sử - đưa đi thăm Am Tháp đá và kể về những câu chuyện cũ. Có lẽ Dung muốn đưa chúng tôi sống lại không gian lịch sử một thời với bao dấu ấn trên vùng đất này.

Tôi hỏi Dung: “Sao người ta gọi đền thờ cố Tổng Bí thư là đền thiêng?” Chị Dung nói: “Thiêng ở đây là tình cảm thiêng liêng trong lòng mỗi người anh ạ. Những lần về, bao giờ cố Tổng Bí thư cũng dành thời gian trò chuyện với dân làng. Đặc biệt là lần về thăm Am Tháp đá Cẩm Duệ để bái tổ và thăm cố hương vào ngày 4/4/1979. Còn cổ tháp này thì thiêng thật vì có một kiểu kiến trúc rất đặc biệt với nghệ thuật lắp ghép, gọt, đẽo đá khối xếp chồng khít lên nhau không cần miết vôi vữa keo dính thế mà hơn 500 năm vẫn uy nghi vững chãi với thời gian. Không chỉ có trình độ nghệ thuật cao mà những người tạc tháp đá còn khai thác triệt để đường nét hình khối kiến trúc tháp để biểu hiện những ý tưởng sâu xa của đạo Phật về giáo lý. Số 3 được sử dụng một cách tài tình trên các chi tiết kiến trúc tháp. Cụ thể như: Tháp cao 3 tầng, chân tháp phân thành 3 khúc. Dải cánh sen phía trên có 99 cánh là bội số của số 3, dải cánh sen phía dưới có 108 cánh cũng là bội số của 3. Con số 108 trong giáo lý đạo Phật biểu thị cho lý tưởng từ bi hỷ xả, bỏ 108 điều phiền não để trở về với bản ngã chân tâm như chuỗi tràng hạt cũng có 108 hạt vậy”.

Tháp Am đá ở xã Cẩm Duệ - Cẩm Xuyên –Hà Tĩnh

Dung kể cho chúng tôi truyền thuyết về Am Tháp đá Cẩm Duệ bắt đầu từ nguồn gốc theo truyền phả của họ Lê Cẩm Duệ vốn từ họ Hồ. Ông tổ họ là Hồ Tiết Tăng, sống ở vùng biển Kỳ La. Sau sự kiện vua Hồ Quý Ly bị bắt ở núi Thiên Cầm (Kỳ La) và Hồ Hán Thương bị bắt ở núi Cao Vọng (Kỳ Hoa), Hồ Tiết Tăng sợ họ Hồ bị liên lụy nên đổi thành họ Lê và chuyển dời nhà lên vùng đá bạc Kẻ Gỗ sinh được 3 người con là Lê Am, Lê Mậu Tài và một người nữa sử sách không ghi rõ. Sau đó cụ Hồ Tiết Tăng, vốn thông thạo địa dư vùng đất này đã hiến kế giúp quân Lê Lợi xây dựng lực lượng nghĩa quân, góp sức đánh thắng quân Minh. Vua Lê xét công lao của cụ Hồ Tiết Tăng giúp đỡ nghĩa quân Lam Sơn nên ban thưởng nhiều tiền bạc và cho 3 người con trai ra Thăng Long ăn học. Do có công lao đức độ và phục vụ cung đình nên Lê Am được vua ban đặc ân chọn sinh phần (chọn đất để an táng khi còn sống). Lê Am đã dựa vào thuyết phong thủy chọn doi đất cao gần sông Ngàn Mọ - Con sông mạch nguồn đã bồi đắp cho cuộc sống dân làng Mỹ Duệ quê hương. Được vua chuẩn y cung cấp tiền và ra chiếu dụ cho tổng Mỹ Duệ cùng 14 dòng họ trong xã góp công xây Am Tháp bằng đá. Am xây sâu 10 thước (4m) theo hình xoắn ốc, bên trên xây tháp đặt tượng thờ Phật. Toàn bộ ngôi tháp được ghép bằng đá cùng với tượng Phật và voi ngựa đá đều được tạo tác từ ngoài Hải Dương, được quân lính chở thuyền về đây. Huyệt mộ của Lê Am được táng ở Am Tháp này. Sau đó họ Lê Mỹ Duệ phát triển thành một dòng họ lớn vào hàng danh gia vọng tộc, học hành đỗ đạt nhiều người giỏi được bổ nhiệm làm quan trong triều đình nhà Lê. Đến thời nhà Mạc, do người họ Lê là cựu thần nhà Lê tên là Lê Mạc làm đến chức Trung tể không phụng sự triều Mạc (Mạc Đăng Dung 1527-1529) do đó có sự hiềm khích. Sợ nhà Mạc trả thù nên Lê Mạc đã di chuyển vào sinh sống ở làng Bích La Đông (Quảng Trị). Và đó chính là liệt tổ của cố Tổng Bí thư Lê Duẩn.

Ngôi trường mẫu giáo mang tên Lê Duẩn ở xã Cẩm Duệ

Về Cẩm Duệ chúng tôi còn được cán bộ xã đưa đến thăm ngôi trường mẫu giáo mang tên Lê Duẩn, ngôi trường này xây dựng hơn 4 tỷ đồng, trong đó ông Lê Kim Trung, con trai của cố Tổng Bí thư đóng góp 2 tỷ đồng. Khi chúng tôi đến, các cháu đang ăn trưa. Các cháu lễ phép râm ran chào chúng tôi rồi thích thú chụm đầu vào nhau để được chụp ảnh. Tôi nghĩ: “Giá như có một phép nhiệm mầu kỳ diệu nào đó, trưa nay cố Tổng Bí thư cũng về đây thì vui biết chừng nào. Một thế hệ tương lai đang được gieo mầm, ươm mầm trên mảnh đất Cẩm Duệ quê ông”

Tôi lại nhớ bức tượng bán thân bằng đồng của cố Tổng Bí thư Lê Duẩn đặt trang trọng trong ngôi đền thiêng trên hồ Kẻ Gỗ. Đôi mắt ông nhìn ra xa nghiêm nghị mà có gì thật gần gũi thân quen. Đôi mắt như chớp chớp với nụ cười khoáng đạt hồn hậu và giọng nói Quảng Trị đặc sệt miền gió Lào cát trắng. Những âm điệu, ngữ điệu ấy là tiếng lòng thân thương chẳng bao giờ quên được...

Tác giả bên ngôi đền Lê Duẩn

N.N.P