img
img

Thế giới hiện nay đang chứng kiến những biến động sâu sắc, với nhiều yếu tố đan xen giữa hợp tác và cạnh tranh, giữa ổn định và bất định. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, cục diện quốc tế chuyển mạnh theo xu hướng đa cực, đa trung tâm; chủ nghĩa dân túy, bảo hộ thương mại, xung đột địa chính trị, cùng các thách thức toàn cầu như biến đổi khí hậu, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, chuyển đổi số... đang tạo ra những sức ép và đòi hỏi mới đối với mọi quốc gia. Trong bối cảnh đó, ngoại giao nghị viện không chỉ là công cụ hợp tác mà còn trở thành một kênh quan trọng định hình luật chơi và củng cố lòng tin chiến lược giữa các quốc gia.

Khu vực châu Á – Thái Bình Dương, đặc biệt là Đông Nam Á, tiếp tục là tâm điểm của các dòng chảy chiến lược. Tại đây, sự đan xen giữa cạnh tranh và hợp tác đặt ra yêu cầu đối ngoại của Việt Nam phải ngày càng bản lĩnh, linh hoạt, sáng tạo hơn, vừa giữ vững nguyên tắc, vừa thích ứng với thực tiễn mới.

img

Ở trong nước, sau gần 40 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; thế và lực, uy tín và vị thế quốc tế của Việt Nam chưa bao giờ cao như hiện nay. Tuy nhiên, yêu cầu phát triển nhanh, bền vững, đi đôi với bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, đang đặt ra cho công tác đối ngoại nói chung và đối ngoại Quốc hội nói riêng những nhiệm vụ mới nặng nề hơn, toàn diện hơn và mang tầm chiến lược sâu sắc hơn.

Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới đã nhấn mạnh quan điểm: “Hoàn thiện cơ chế, nâng cao năng lực của các cơ quan, tổ chức Việt Nam để bảo đảm thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ pháp lý quốc tế, định hình trật tự pháp lý quốc tế; tham gia tích cực vào việc xây dựng thể chế và pháp luật quốc tế: tận dụng hiệu quả, linh hoạt các lợi thế từ cam kết của các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên”.

Cùng tinh thần đó, Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24/1/2025 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trong tình hình mới cũng xác định phải đổi mới, đột phá về tư duy, nhận thức và hành động trong hội nhập quốc tế trong tình hình mới.

img

Theo Tiến sĩ, Đại sứ Ngô Đức Mạnh - nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Liên bang Nga, Nghị quyết 59 thực sự là một quyết sách đột phá, đánh dấu bước ngoặt có tính lịch sử trong quá trình hội nhập của nước với việc định vị lại vị thế quốc tế, đó là “chuyển từ tư duy tiếp nhận sang tư duy đóng góp, từ hội nhập chung sang hội nhập đầy đủ, từ vị thế một quốc gia đi sau sang trạng thái một quốc gia vươn lên, tiên phong”.

“Cùng với đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân, đối ngoại Quốc hội cần thể hiện vai trò là một trụ cột quan trọng trong tổng thể nền ngoại giao toàn diện, hiện đại của Việt Nam, góp phần thực hiện thắng lợi những hướng được xác đinh trong Nghị quyết 59”, Đại sứ Ngô Đức Mạnh nói.

Để thực hiện tầm nhìn trong kỷ nguyên phát triển mới của đất nước, theo Đại sứ Ngô Đức Mạnh, công tác đối ngoại của Quốc hội cần tiếp tục được nâng cao về hiệu quả và chiều sâu.

img

Tiến sĩ, Đại sứ Ngô Đức Mạnh - nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội

Trước hết, cần tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo toàn diện của Đảng và sự quản lý thống nhất của Nhà nước đối với hoạt động đối ngoại của Quốc hội, bảo đảm mọi hoạt động được triển khai nhất quán, đúng định hướng, phù hợp với lợi ích quốc gia – dân tộc. Đối ngoại Quốc hội cần phát huy vai trò là kênh quan trọng góp phần bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc, trên cơ sở tôn trọng Hiến chương Liên Hợp Quốc, luật pháp quốc tế và các nguyên tắc cùng có lợi, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau.

Quốc hội cũng cần chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động song phương với nghị viện các nước, đặc biệt là các nước láng giềng, các nước trong khu vực, bạn bè truyền thống, các nước lớn, các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và các đối tác khác, đồng thời tăng cường quan hệ với các tổ chức nghị viện quốc tế, đổi mới hình thức, phương thức hợp tác, tạo thế đan xen lợi ích và gia tăng độ tin cậy chính trị.

Cùng với đó, đối ngoại Quốc hội cần chủ động tham gia, phát huy vai trò tại các diễn đàn nghị viện quốc tế, nơi Việt Nam là thành viên tích cực, có sáng kiến và tiếng nói có trọng lượng. Công tác giám sát đối ngoại, tham mưu, hoạch định chính sách và nghiên cứu xu hướng vận động của ngoại giao nghị viện cần được chú trọng hơn, nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập sâu rộng.

img

Cũng theo Đại sứ Ngô Đức Mạnh, Quốc hội cần tiếp tục sắp xếp, tổ chức một cách hợp lý các đơn vị làm công tác đối ngoại tương xứng với thực tế ở hầu hết các quốc gia.

“Vừa qua, việc Quốc hội sắp xếp lại Ủy ban Đối ngoại và Ủy ban Quốc phòng và An ninh thành Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại là một bước đi quan trọng và cần thiết. Trong thời gian tới, Quốc hội vẫn cần tiếp tục nghiên cứu để nâng cao hiệu quả hoạt động, tăng tính chuyên môn hóa và tính liên thông, bảo đảm sự phối hợp nhịp nhàng giữa các đơn vị tham mưu, hợp tác quốc tế, thông tin đối ngoại và các nhóm nghị sĩ hữu nghị, qua đó hình thành một hệ thống đối ngoại thống nhất, chuyên nghiệp, có tầm nhìn chiến lược”, Đại sứ Ngô Đức Mạnh cho biết.

Cuối cùng, cần đổi mới, nâng cao chất lượng công tác thông tin, tuyên truyền về hoạt động đối ngoại của Quốc hội, làm rõ kết quả, tác động và ý nghĩa của đối ngoại nghị viện đối với công tác đối ngoại chung của Đảng và Nhà nước. Qua đó, góp phần nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về vai trò, vị thế của đối ngoại Quốc hội trong việc củng cố quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa Việt Nam với các nước và tổ chức quốc tế.

img
img

Trong bối cảnh hoạt động đối ngoại của Quốc hội ngày càng mở rộng về quy mô, đa dạng về hình thức và phức tạp về nội dung, yêu cầu đặt ra không chỉ là đổi mới tư duy, phương thức mà còn là nâng cao năng lực tổ chức và chất lượng đội ngũ làm công tác đối ngoại Quốc hội.

Theo Đại sứ Ngô Quang Xuân – nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội, bên cạnh việc cần phải sắp xếp, tổ chức một cách hợp lý các đơn vị làm công tác đối ngoại tương xứng với thực tế ở hầu hết các quốc gia, điều quan trọng nhất là phải nâng cao được chất lượng, trình độ, kỹ năng, nhất là kỹ năng về ứng xử, giao tiếp, đàm phán ngoại giao và thông thạo ngoại ngữ của đội ngũ nghị sĩ và các đơn vị làm công tác ngoại giao nghị viện.

img

Đại sứ Ngô Quang Xuân – nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội

“Chỉ có nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ đối ngoại như nêu ở trên mới tận dụng tốt nhất được mọi cơ hội của ngoại giao nghị viện trong giai đoạn hội nhập sâu rộng ngày nay”, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội khẳng định.

Cũng khẳng định tầm quan trọng của yếu tố con người, PGS.TS Bùi Hoài Sơn - Ủy viên chuyên trách Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội cho rằng cần đầu tư mạnh mẽ cho năng lực của đội ngũ đại biểu tham gia công tác đối ngoại nghị viện.

“Ngoại giao nghị viện chuyên nghiệp không thể chỉ dựa vào lòng nhiệt huyết, mà đòi hỏi năng lực nghiên cứu, tư duy phản biện, khả năng đối thoại và bản lĩnh văn hóa. Mỗi đại biểu, đặc biệt là những người tham gia các diễn đàn quốc tế, phải trở thành “sứ giả văn hóa, tri thức, trách nhiệm”, mang đến hình ảnh một Việt Nam tự tin, có tầm nhìn và bản sắc riêng trong thế giới hội nhập”, ông Sơn nói.

img

PGS.TS Bùi Hoài Sơn - Ủy viên chuyên trách Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội

Bên cạnh đó, theo đại biểu này, cần tiếp tục hoàn thiện thể chế, cơ chế phối hợp giữa Quốc hội với Chính phủ, các cơ quan đối ngoại và các tổ chức quốc tế, nhằm tạo thành sức mạnh tổng hợp của toàn bộ hệ thống chính trị trong hoạt động ngoại giao. Khi ngoại giao nghị viện được đặt trong chiến lược tổng thể về đối ngoại quốc gia, gắn với ngoại giao văn hóa và ngoại giao kinh tế, hiệu quả lan tỏa sẽ sâu rộng và bền vững hơn.

Từ góc độ văn hóa, PGS.TS Bùi Hoài Sơn cũng cho rằng sức mạnh của ngoại giao nghị viện không chỉ đến từ nghị trường, mà còn từ “sức mạnh mềm” của văn hóa và con người Việt Nam. Cách chúng ta lắng nghe, tranh luận, thuyết phục và ứng xử trong các diễn đàn quốc tế chính là sự thể hiện sinh động của bản sắc văn hóa Việt Nam hiện đại: mềm mại mà kiên định, khiêm nhường mà tự tin, nhân văn mà quyết đoán.

Khi hội nhập được nâng tầm bằng văn hóa, thì ngoại giao nghị viện cũng trở thành biểu tượng cho trí tuệ và bản lĩnh của một dân tộc biết hòa nhập mà không hòa tan, biết hội nhập để phát triển, chứ không đánh mất mình.

img
img

Để hiện thực hóa tinh thần Nghị quyết 59-NQ/TW của Bộ Chính trị, ĐBQH Trịnh Thị Tú Anh (Đoàn Lâm Đồng) cho rằng trọng tâm cần được quán triệt là “chủ động, tích cực tham gia định hình luật chơi quốc tế”, tức là không chỉ tham gia, mà phải góp phần dẫn dắt, kiến tạo các khuôn khổ hợp tác và chuẩn mực mới phù hợp với lợi ích quốc gia, dân tộc.

Để đáp ứng yêu cầu này, đại biểu này cho rằng cần xây dựng năng lực chuyên môn sâu cho đội ngũ làm công tác đối ngoại của Quốc hội. Có thể xem xét thành lập các Nhóm Nghiên cứu chiến lược chuyên biệt trong Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại và các Ủy ban khác, tập trung vào những vấn đề toàn cầu mới nổi như thuế carbon (CBAM), quản trị trí tuệ nhân tạo (AI), an ninh mạng, luật biển, kinh tế số... Mục tiêu là giúp các nghị sĩ và cán bộ tham mưu đủ năng lực thảo luận, đóng góp ý kiến ngang tầm với các đối tác quốc tế về chuyên môn, không chỉ dừng lại ở đối thoại mang tính chính trị chung chung.

img

ĐBQH Trịnh Thị Tú Anh (Đoàn Lâm Đồng)

Bên cạnh đó, cần đổi mới công tác tham mưu và hậu cần đối ngoại. Quốc hội nên đầu tư xây dựng hệ thống phân tích và dự báo rủi ro quốc tế, ứng dụng công nghệ số và trí tuệ nhân tạo (AI) trong việc tổng hợp, phân tích thông tin, từ đó đưa ra khuyến nghị chính sách kịp thời, chính xác và thực chất cho các đoàn công tác và hoạt động nghị viện quốc tế.

Đặc biệt, tại các diễn đàn nghị viện khu vực và toàn cầu, Quốc hội Việt Nam có thể đề xuất các khung khổ hợp tác lập pháp mới về các vấn đề mang tính toàn cầu như chuỗi cung ứng xanh, năng lượng tái tạo, chống gian lận thương mại... qua đó, tạo dựng dư luận quốc tế thuận lợi cho các lợi ích chiến lược của Việt Nam, nhất là trong vấn đề Biển Đông và bảo vệ chủ quyền quốc gia.

“Cần phát huy ngoại giao lập pháp chiến lược, bằng cách lồng ghép các nội dung hợp tác cụ thể trong khuôn khổ pháp luật quốc gia khi tiếp xúc và làm việc với các đoàn nghị sĩ nước ngoài. Thay vì dừng lại ở những cuộc gặp mang tính xã giao, cần tập trung thúc đẩy các dự án luật, chính sách và cam kết có lợi cho Việt Nam, chẳng hạn như luật về đầu tư, sở hữu trí tuệ, thương mại số, qua đó gắn kết chặt chẽ ngoại giao nghị viện với lợi ích kinh tế, pháp lý cụ thể”, đại biểu đoàn Lâm Đồng cho biết

img

Cũng theo đại biểu này, hiệu quả của đối ngoại Quốc hội cần được đo lường dựa trên kết quả thực chất, thay vì các chỉ số hình thức. Quốc hội nên xem xét xây dựng Bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả (KPIs) cho hoạt động đối ngoại nghị viện, trong đó tập trung vào các kết quả cụ thể như: số lượng hiệp định, điều ước quốc tế được thông qua; giá trị thương mại, đầu tư hoặc hợp tác song phương, đa phương được thúc đẩy; mức độ tháo gỡ các rào cản kỹ thuật (như CBAM) thông qua đối thoại nghị viện.

Trong bối cảnh thế giới biến động sâu sắc, khu vực châu Á – Thái Bình Dương đang trở thành tâm điểm của cạnh tranh chiến lược và định hình trật tự mới, đối ngoại Quốc hội Việt Nam đã và đang khẳng định rõ vai trò là một trụ cột quan trọng của nền ngoại giao toàn diện, hiện đại, góp phần nâng cao vị thế, uy tín và sức mạnh tổng hợp quốc gia.

Trong giai đoạn tới, việc đột phá về tư duy, tăng cường tính chủ động, nâng cao chất lượng và tính chuyên nghiệp của hoạt động đối ngoại Quốc hội, cùng với sự phối hợp chặt chẽ giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và ngoại giao nhân dân, sẽ là chìa khóa để hiện thực hóa tầm nhìn mà Đảng đã đặt ra, góp phần xây dựng thế trận đối ngoại của Việt Nam trong kỷ nguyên phát triển mới.

img

Thực hiện: Mạnh Quốc – Hoàng Bích

Thiết kế: Hoàng Yến

NGUOIDUATIN.VN |