Quốc hội Việt Nam có lịch sử gần 80 năm kể từ mùa xuân Tổng tuyển cử đầu tiên năm 1946. Bên cạnh vai trò là cơ quan đại biểu cao nhất, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, Quốc hội Việt Nam còn đóng vai trò là một nhân tố tích cực, nòng cốt trên mặt trận đối ngoại.
Ngay từ những ngày đầu lập quốc, hoạt động đối ngoại của Quốc hội đã được đặt nền móng và không ngừng mở rộng, phát triển, góp phần quan trọng vào việc thực thi hiệu quả chính sách đối ngoại của Việt Nam trong từng giai đoạn lịch sử. Sau gần 80 năm, đến nay, ngoại giao nghị viện đã khẳng định được vai trò là một kênh quan trọng, bổ sung cho đối ngoại Đảng và ngoại giao Nhà nước, tạo nên sức mạnh tổng hợp cho nền ngoại giao Việt Nam hiện đại và nâng cao vị thế quốc tế của Việt Nam.
Với nhận thức trên, Người Đưa Tin thực hiện tuyến bài “Đối ngoại Quốc hội và dấu ấn Việt Nam trên nghị trường quốc tế” nhằm khắc họa chặng đường phát triển của đối ngoại Quốc hội Việt Nam, đồng thời làm rõ vai trò trụ cột, những nỗ lực không ngừng và đóng góp quan trọng của đối ngoại Quốc hội cho nền ngoại giao toàn diện, hiện đại, và cuối cùng là những đòi hỏi cấp bách của đối ngoại Quốc hội trong kỷ nguyên phát triển mới của đất nước.
Trong tiến trình phát triển của quan hệ quốc tế, ngoại giao đóng vai trò là phương tiện hòa bình quan trọng nhất để thực thi chính sách đối ngoại của Nhà nước, bảo vệ lợi ích quốc gia – dân tộc, đồng thời tạo dựng hình ảnh và vị thế của quốc gia trong cộng đồng quốc tế.
Xét ở nghĩa rộng, ngoại giao bao gồm mọi hoạt động chính thức của người đứng đầu Nhà nước, Chính phủ, Bộ Ngoại giao, các cơ quan đại diện quốc gia ở nước ngoài và các cơ quan đối ngoại khác nhằm triển khai chính sách đối ngoại, bảo vệ lợi ích quốc gia, tổ chức và công dân ở nước ngoài. Ở nghĩa hẹp hơn, ngoại giao được hiểu là nghệ thuật đàm phán, là công cụ của các nhà ngoại giao nhằm xử lý quan hệ quốc tế bằng con đường hòa bình.
Tuy nhiên, quan hệ quốc tế cũng là sự đan xen, phức hợp của các mối quan hệ tương tác giữa rất nhiều chủ thể khác nhau tham gia vào sân khấu chính trị thế giới. Theo thời gian, ngoại giao không còn là “sân chơi riêng” của cơ quan hành pháp, mà ngày càng trở nên đa tầng, đa lớp, đa kênh, với các mũi nhọn trên nhiều hướng khác nhau nhưng phối hợp và chuyển hóa lẫn nhau nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp trong nền ngoại giao của một quốc gia. Trong số đó, ngoại giao nghị viện – đối ngoại quốc hội đã trở thành một kênh quan trọng, mang tính bổ trợ và gia tăng sức mạnh tổng hợp cho nền ngoại giao quốc gia.
Ngoại giao nghị viện là hoạt động đối ngoại của nghị viện hoặc nghị sĩ. Bên cạnh việc tác động trực tiếp vào quá trình hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại của quốc gia, nghị viện - với tư cách là những người được nhân dân trực tiếp bầu ra, còn đóng vai trò cầu nối giữa cử tri nước mình với dư luận thế giới.
Bên cạnh đó, khi tham gia quan hệ quốc tế, mỗi nghị sĩ còn thể hiện cả quan điểm và mối quan tâm của cử tri, những người do mình đại diện. Thông qua các hoạt động tại các diễn đàn song phương và đa phương, các nghị viện, nghị sĩ có những đóng góp hiệu quả vào việc hình thành, phát triển của các tổ chức liên nghị viện quốc tế và khu vực, góp phần thúc đẩy dân chủ hóa quan hệ quốc tế và tăng cường hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc.
Trao đổi với Người Đưa Tin, GS.TS Vũ Dương Huân - nguyên Giám đốc Học viện Ngoại giao Việt Nam, Trưởng ban Nghiên cứu Lịch sử ngoại giao cho biết, ngoại giao nghị viện là một loại hình ngoại giao đặc thù, bổ sung, hỗ trợ cho ngoại giao nhà nước và các loại hình ngoại giao khác trong việc thực hiện mục tiêu chính sách đối ngoại của quốc gia.
“Điểm đặc thù của ngoại giao nghị viện xuất phát từ bản chất của nghị viện, là cơ quan đại diện cho nhân dân. Sự tham gia của nghị viện vào quan hệ đối ngoại của quốc gia thể hiện trong cả ba chức năng của nghị viện: lập pháp, đại diện và giám sát. Khác với ngoại giao đảng mang nặng tính chính trị, hệ tư tưởng, hay ngoại giao nhân dân thiên về kênh trao đổi thông tin, giao lưu văn hóa, xã hội, ngoại giao nghị viện lại vừa mang tính chính trị, tính đảng, lại vừa thể hiện ý chí của người dân đã bầu ra các nghị sĩ, vừa thể hiện lập trường quốc gia, vừa thể hiện tiếng nói của nhân dân.
Nhờ có tính nhân dân nên ngoại giao nghị viện mềm mỏng hơn, có thể đi vào những nơi, những vấn đề gai góc mà ngoại giao nhà nước, ngoại giao chính thức khó phát huy hiệu quả. Tính đa dạng, tính chất liên nghị viện, tính chất đại diện rộng rãi nguyện vọng và ý kiến nhân dân, tính tư vấn, cơ cấu tổ chức và những phương thức hoạt động linh hoạt cùng với vị trí vai trò hết sức quan trọng của các cơ quan lập pháp đã góp phần tạo nên phương thức hoạt động ngoại giao đặc thù của ngoại giao nghị viện. Vì vậy, ngoại giao nghị viện vừa có vai trò mở đường, vừa có vai trò thúc đẩy quan hệ”, GS.TS Vũ Dương Huân phân tích.
Cũng theo GS.TS Vũ Dương Huân, mặc dù mô hình nghị viện có lịch sử lâu đời, ra đời và phát triển cùng nhà nước dân chủ. Tuy nhiên, trong nhiều thập kỷ, ngoại giao nghị viện chưa thể phát triển vì hoạt động đối ngoại của quốc gia tập trung chủ yếu trong tay cơ quan hành pháp. Cho đến cuối thế kỷ XIX, hoạt động ngoại giao nghị viện bắt đầu xuất hiện, gắn với các phong trào hòa bình ở châu Âu, khi một số nghị sĩ tiên phong tổ chức các cuộc gặp gỡ nhằm thúc đẩy hợp tác quốc tế và giải quyết xung đột bằng biện pháp hòa bình.
Dấu mốc quan trọng đánh dấu sự hình thành của hình thức đối ngoại này chính là sự ra đời của Liên minh Nghị viện Thế giới (IPU) vào năm 1889, theo sáng kiến của hai nghị sĩ Randal Cremer (Anh) và Frédéric Passy (Pháp). Kể từ đó, các nghị viện và nghị sĩ trên toàn cầu ngày càng mở rộng hợp tác song phương, đa phương, thúc đẩy đối thoại, hiểu biết và hợp tác giữa các quốc gia. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của IPU và các tổ chức liên nghị viện khu vực, ngoại giao nghị viện đã trở thành một phần không thể thiếu của đời sống chính trị quốc tế hiện đại.
Quốc hội Việt Nam có lịch sử gần 80 năm. Cùng với sự ra đời của Quốc hội, hoạt động đối ngoại Quốc hội cũng chính thức hình thành, đánh dấu bước khởi đầu của một kênh đối ngoại đặc thù, gắn bó chặt chẽ với tiến trình lập quốc và phát triển của đất nước.
Cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên năm 1946 được tổ chức dân chủ, tự do trên phạm vi cả nước, với tỷ lệ cử tri đi bỏ phiếu đạt 89%, bầu ra 333 đại biểu Quốc hội, trong đó 57% là đảng viên các đảng phái và 43% là người ngoài đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh được 98,5% phiếu tín nhiệm, trở thành biểu tượng của khối đại đoàn kết toàn dân. Ý nghĩa đặc biệt của Quốc hội khóa I không chỉ ở chỗ đây là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mà còn vì đó đồng thời là Quốc hội lập hiến với việc thông qua bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946, khẳng định chủ quyền quốc gia, quyền làm chủ của nhân dân và thiết lập cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước mới, trong đó có các hoạt động của Quốc hội. Quốc hội khóa I có nhiệm kỳ 1946–1960, thông qua hai bản Hiến pháp (1946 và 1959), 16 đạo luật, 50 nghị quyết và ba Chính phủ liên hiệp do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu.
Theo GS.TS Vũ Dương Huân, ngay từ khởi đầu, hoạt động đối ngoại của Quốc hội Việt Nam luôn gắn bó mật thiết với đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước, lấy đó làm kim chỉ nam cho hành động. Ngoại giao nghị viện trở thành một bộ phận hữu cơ của tổng thể công tác đối ngoại, phối hợp nhịp nhàng với đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân. Đồng thời, các quy định quốc tế như Công ước Viên về quan hệ ngoại giao (1961), Công ước Viên về quan hệ lãnh sự (1963) hay các Công ước về quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao… cũng tạo nền tảng pháp lý quan trọng cho hoạt động đối ngoại của Quốc hội Việt Nam.
Ngay trong năm đầu lập quốc, hoạt động đối ngoại của Quốc hội đã sớm được khởi xướng. Từ ngày 25/4/1946 đến ngày 16/5/1946, đoàn đại biểu Quốc hội do Phó Trưởng Ban Thường trực Quốc hội Phạm Văn Đồng dẫn đầu thăm chính thức nước Pháp, bày tỏ thiện chí hòa bình của Quốc hội và nhân dân Việt Nam với Quốc hội và nhân dân Pháp. Phái đoàn dân cử đầu tiên của một tiểu quốc thuộc địa mới giành được độc lập hiện diện tại Paris thể hiện mạnh mẽ ý chí, khát vọng hòa bình của dân tộc Việt Nam.
Trước đó, ngay sau Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946, Cố vấn Vĩnh Thụy cũng đã dẫn đầu Đoàn Quốc hội và Chính phủ thăm Trung Quốc nhằm giới thiệu và bày tỏ thiện chí hữu nghị của nước Việt Nam mới (Rất tiếc, sau chuyến thăm này, Vĩnh Thụy đã sang và ở lại Hồng Kông).
Từ năm 1950, sau khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thiết lập quan hệ ngoại giao với với Trung Quốc, Liên Xô, Triều Tiên và các nước dân chủ nhân dân ở Đông Âu, Ban Thường trực Quốc hội đã mở rộng quan hệ nghị viện các nước đó, đánh dấu bước phát triển đầu tiên của ngoại giao nghị viện Việt Nam.
Trong các khóa II, III, IV và V (giai đoạn 1960-1976), Quốc hội Việt Nam đã duy trì hoạt động đối ngoại sôi nổi. Nhiều phái đoàn của Quốc hội Việt Nam đi thăm Liên Xô, Trung Quốc, Lào, Campuchia và các nước xã hội chủ nghĩa. Quốc hội nước ta cũng đón nhiều Đoàn đại biểu các nước, các đảng, Quốc hội, nghị sĩ Quốc hội và các tổ chức tiến bộ từ Châu Á, Châu Âu, châu Mỹ, Châu Phi lần lượt đến thăm Việt Nam. Những hoạt động này đã góp phần quan trọng vào việc tranh thủ sự ủng hộ quốc tế đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, làm sáng tỏ chính nghĩa của dân tộc Việt Nam và củng cố thế trận ngoại giao toàn diện trên trường quốc tế.
Sau đại thắng mùa Xuân 1975 và cuộc bầu cử Quốc hội thống nhất năm 1976, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam chính thức ra đời. Các khóa VI và VII đánh dấu bước chuyển của Quốc hội từ thời chiến sang thời bình, tập trung củng cố bộ máy nhà nước và mở rộng quan hệ quốc tế.
Một cột mốc quan trọng là tháng 2/1974, Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội được thành lập – cơ quan chuyên trách đầu tiên về đối ngoại Quốc hội. Đến năm 1979, Quốc hội Việt Nam chính thức gia nhập Liên minh Nghị viện Thế giới (IPU), trở thành thành viên chính thức của cộng đồng nghị viện quốc tế, mở ra thời kỳ mới khi Quốc hội nước ta bắt đầu tham gia ngoại giao đa phương.
Bước vào thời kỳ Đổi mới từ năm 1986, dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội VI của Đảng, đối ngoại Quốc hội phát triển đột phá, mạnh mẽ, toàn diện và sôi động hơn bao giờ hết. Cùng với việc phá thế bao vây, cấm vận, mở rộng quan hệ đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa, Quốc hội Việt Nam đã chủ động mở rộng giao lưu nghị viện các nước, không chỉ riêng ở các nước XHCN và các nước trong khu vực mà mở rộng ra toàn thế giới, đặc biêt là các nước phương Tây, ở tất cả các châu lục. Chỉ riêng khóa XI (2002–2007), Quốc hội ta đã cử hơn 350 đoàn công tác thăm 61 quốc gia, đồng thời đón tiếp hơn 150 đoàn nghị sĩ từ 40 quốc gia. Đến khóa XIV (2016–2021), có tới 98 đoàn của Quốc hội Việt Nam thăm và làm việc tại nước ngoài, trong đó 14 đoàn cấp Chủ tịch Quốc hội, 26 đoàn cấp Phó Chủ tịch Quốc hội; đồng thời đón 97 đoàn nghị viện quốc tế đến thăm Việt Nam.
Tính đến nay, Quốc hội Việt Nam đã thiết lập quan hệ nghị viện với khoảng hơn 140 quốc gia trên thế giới, tham gia làm thành viên của hầu hết các tổ chức nghị viện thế giới và khu vực, như IPU, AIPA, APPF, APF.... Trên bình diện đa phương, dấu ấn nổi bật của Quốc hội Việt Nam trong thời gian qua là việc chủ trì các hội nghị đa phương quan trọng, mang tầm cỡ quốc tế và khu vực như Đại hội đồng IPU 132 (năm 2015), Hội nghị Diễn đàn Nghị viện Châu Á - Thái Bình Dương lần thứ 26 (APPF 26, năm 2018) và Đại hội đồng AIPA 41 (năm 2020), Hội nghị nghị sĩ trẻ toàn cầu lần thứ 9 của IPU (năm 2023), Hội nghị Ban Chấp hành APF và Diễn đàn Nghị viện hợp tác Pháp ngữ về nông nghiệp bền vững, an ninh lương thực và ứng phó với biến đổi khí hậu (Tháng 1/2025)….
Bắt đầu từ nhiệm kỳ khoá IX, một nét nổi bật khác là việc thành lập các Nhóm nghị sĩ hữu nghị và phát triển nhanh chóng sau đó. Năm 2021, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thành lập Tổ chức Nghị sỹ hữu nghị Việt Nam gồm 45 Nhóm Nghị sỹ hữu nghị Việt Nam với các nước, nhằm thúc đẩy quan hệ hữu nghị hợp tác, tăng cường hiểu biết, sự tin cậy trên kênh Quốc hội.
Bên cạnh đó là sự ra đời và phát triển của các Nhóm Nghị sĩ trẻ và Nhóm Nữ đại biểu Quốc hội, trở thành diễn đàn để các đại biểu Quốc hội nữ, đại biểu Quốc hội trẻ giao lưu, chia sẻ kinh nghiệm trong quá trình hoạt động Quốc hội, đặc biệt là trong các lĩnh vực liên quan đến bình đẳng giới, các chính sách cho giới trẻ
Đặc biệt, việc thành lập Ủy ban Hợp tác liên nghị viện cũng là thành tựu quan trọng của Quốc hội Việt Nam. Ủy ban có vai trò quan trọng trong việc trao đổi kinh nghiệm, giải quyết các vấn đề thực tiễn trong quan hệ song phương và các lĩnh vực hợp tác khác như chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh...Hiện nay, Quốc hội Việt Nam đã thiết lập được 3 Ủy ban Hợp tác liên nghị viện với Liên bang Nga, Cuba và Trung Quốc, minh chứng cho chiều sâu và tầm cao mới của đối ngoại Quốc hội.
“Từ hai chuyến thăm nước Pháp và Trung Hoa Dân quốc năm 1946 mở đầu cho đến hôm nay, đối ngoại Quốc hội đã trải qua gần 80 năm phát triển không ngừng, về cả song phương và đa phương, về cả số lượng các đối tác và nội dung, chiều sâu hoạt động, góp phần quan trọng vào thực hiện thắng lợi đường lối đối ngoại của Đảng trong cuộc cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, GS.TS Vũ Dương Huân nói.
Có thể nói, trong 80 năm hình thành và phát triển, hoạt động đối ngoại của Quốc hội Việt Nam luôn gắn liền với hành trình bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước. Từ chỗ chỉ là một kênh bổ trợ cho ngoại giao Nhà nước, đến nay, ngoại giao nghị viện đã khẳng định vị thế là một trụ cột quan trọng của nền ngoại giao toàn diện, hiện đại Việt Nam.
Theo Đại sứ Ngô Quang Xuân – nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội, công tác đối ngoại của Quốc hội Việt Nam đã phát huy hiệu quả, lợi thế và nét đặc thù vừa mang tính nhà nước, vừa mang tính nhân dân; lúc là cánh tay nối dài, lúc là lực lượng mở đường, kết nối đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân.
“Chính nhờ sự linh hoạt đã giúp ngoại giao nghị viện trở thành một phương thức mềm dẻo nhưng có sức nặng trong tổng thể hoạt động đối ngoại của quốc gia, góp phần làm sâu sắc hơn các mối quan hệ hợp tác giữa Việt Nam với các nước và các cơ chế nghị viện đa phương, đồng thời khẳng định vai trò, vị thế của Việt Nam trên nghị trường quốc tế”, Đại sứ Ngô Quang Xuân đánh giá.
Theo đó, trong giai đoạn đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, dù hoạt động đối ngoại của Quốc hội mới hình thành nhưng đã mang đậm dấu ấn cách mạng Các hoạt động giao lưu nghị viện đã góp phần tạo dựng và củng cố mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam, ủng hộ mạnh mẽ cuộc kháng chiến chính nghĩa của dân tộc ta. Đây cũng là giai đoạn đặt nền móng cho hệ thống chính trị – pháp lý và cơ sở quan hệ quốc tế phục vụ cho công cuộc xây dựng đất nước sau này.
Trong giai đoạn Đổi mới và hội nhập quốc tế, hoạt động đối ngoại của Quốc hội lại phát huy vai trò “đối ngoại mềm”, linh hoạt và hiệu quả, phối hợp chặt chẽ với đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân để góp phần phá thế bao vây, cấm vận, mở ra thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng. Trong những bước ngoặt ấy, dấu ấn của ngoại giao nghị viện được thể hiện rõ qua sự chủ động tham gia đối thoại, xây dựng đồng thuận, thúc đẩy hợp tác và đề xuất nhiều sáng kiến có giá trị. Có thể khẳng định rằng, đối ngoại Quốc hội, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của người dân, đã góp phần lan tỏa thông điệp về một Việt Nam năng động, thân thiện và có trách nhiệm, chủ động và tích cực, qua đó nâng cao uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Trải qua 8 thập kỷ, trên một nền tảng vững chắc, đối ngoại Quốc hội đã có bước trưởng thành vượt bậc, không chỉ làm tốt vai trò “cầu nối” giữa nhân dân với bạn bè quốc tế mà còn trở thành trụ cột quan trọng trong việc xây dựng hình ảnh, nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế. “Đó là một kênh đối ngoại đặc thù, góp phần làm rạng danh Việt Nam trong nền ngoại giao toàn diện, hiện đại của thời đại mới”, Đại sứ Ngô Quang Xuân khẳng định.