Tròn 40 năm kể từ khi công cuộc Đổi mới được khởi xướng, hành trình hội nhập quốc tế của Việt Nam đã tạo nên những bước chuyển mình sâu sắc trên mọi lĩnh vực. Ít ai biết rằng, song hành cùng hội nhập kinh tế, chính trị – ngoại giao, an ninh – quốc phòng, còn có một lĩnh vực quan trọng không kém: hội nhập pháp lý, đưa đất nước “bước ra thế giới” trên nền tảng pháp luật. Trong mạch chảy thầm lặng đó, ngành Tư pháp đã và đang thực hiện một sứ mệnh không chỉ giúp Việt Nam hội nhập bằng pháp luật, mà còn góp phần định hình “luật chơi”, bảo vệ lợi ích quốc gia bằng công cụ của pháp luật.
Với nhận thức trên, Người Đưa Tin thực hiện tuyến bài “Hội nhập pháp lý – Sứ mệnh thầm lặng và vai trò kiến tạo” nhằm khắc họa nỗ lực đưa hệ thống pháp luật Việt Nam hội nhập quốc tế, từ những bước đi ban đầu, đến những thành tựu nổi bật và cuối cùng là những đòi hỏi cấp bách trong kỷ nguyên phát triển mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.
Tư duy hội nhập của hệ thống pháp luật Việt Nam đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt nền móng từ những ngày đầu lập quốc. Người luôn khẳng định, cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, cùng tiến bước với trào lưu thời đại, thì pháp luật Việt Nam cũng không thể đối lập với luật pháp quốc tế. Từ rất sớm, Người đã đặt ra yêu cầu: pháp luật Việt Nam phải phù hợp với các giá trị tiến bộ của luật pháp quốc tế và tôn trọng luật pháp quốc tế.
Hơn nữa, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chủ trương duy trì quan hệ hòa bình, hữu nghị, hợp tác với các nước khác trên thế giới nên pháp luật Việt Nam phải là kim chỉ nam cho công tác xây dựng pháp luật về đối ngoại và hội nhập. Việc kế thừa tinh hoa pháp lý quốc tế, kể cả từ các quốc gia tư sản, thể hiện tầm nhìn vượt thời đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vì suy cho cùng, văn minh pháp lý tư sản cũng là thành tựu chung của nhân loại.
Tuy nhiên, trong suốt 40 năm sau đó, từ 1946 đến 1986, đất nước ta trải qua một giai đoạn đặc biệt trong lịch sử hiện đại. Cả dân tộc dồn toàn lực cho nhiệm vụ đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN đồng thời thực hiện nghĩa vụ quốc tế. Trong hoàn cảnh đó, xây dựng hệ thống pháp luật chưa trở thành ưu tiên cấp thiết, và vì thế, quá trình lập pháp vẫn còn khiêm tốn cả về lượng và chiều sâu. Từ Quốc hội Khóa I đến Khóa VII, chỉ có tổng cộng 32 đạo luật được ban hành, chủ yếu tập trung xác lập nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước thời chiến, luật về nghĩa vụ quân sự, quyền cơ bản của công dân và một số vấn đề gắn với nền kinh tế kế hoạch hóa. Các lĩnh vực đời sống xã hội lúc bấy giờ chưa phát triển phong phú, các quan hệ xã hội còn đơn giản, chủ yếu vận hành trong khuôn khổ một nền kinh tế kế hoạch tập trung với duy nhất một hình thức sở hữu tư liệu sản xuất là sở hữu toàn dân.
Trong bối cảnh đó, hoạt động lập pháp chưa đặt ra những yêu cầu thường xuyên và cấp bách. Thay vào đó, các nhu cầu quản lý nhà nước chủ yếu được đáp ứng thông qua hệ thống văn bản dưới luật như nghị quyết, nghị định, quyết định, chỉ thị, thông tư, thậm chí trong một số trường hợp là công văn, thông báo. Việc ban hành luật theo chương trình, có quy trình đầy đủ, đồng bộ như sau này vẫn chưa hình thành. Có thể coi đây là một giai đoạn đặc thù khi pháp luật chủ yếu đóng vai trò kỹ thuật hành chính, hơn là một công cụ chiến lược kiến tạo và điều tiết sự phát triển xã hội. Thậm chí, từ năm 1960 cho đến khi Bộ Tư pháp được tái lập vào năm 1981, trong thành phần của Chính phủ, không còn cơ quan nào giúp Chính phủ quản lý thống nhất và toàn diện các công việc về tư pháp trên phạm vi cả nước.
Đối với hội nhập quốc tế, giai đoạn này cũng chưa đặt ra yêu cầu rõ nét đối với hệ thống pháp luật Việt Nam. Trong điều kiện chiến tranh và ý thức hệ sâu sắc, hệ thống pháp luật Việt Nam chủ yếu chịu ảnh hưởng sâu sắc từ mô hình pháp luật của Liên Xô và các nước Đông Âu. Mối liên hệ với các chuẩn mực pháp lý quốc tế phổ quát, đặc biệt là từ hệ thống luật pháp tư sản hay các công ước đa phương quốc tế, vẫn còn hạn chế. Tư duy “pháp luật để hội nhập” chưa thể phát triển mạnh mẽ trong điều kiện lịch sử cụ thể khi đó.
Thế nhưng, cũng chính từ nền tảng ban đầu còn khiêm tốn ấy, quá trình Đổi mới đã mở ra một bước ngoặt quan trọng. Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện và sâu sắc mọi lĩnh vực của nền kinh tế, trong đó ra nhiều yêu cầu mới đối với hệ thống pháp luật. Pháp luật từ chỗ là công cụ điều hành trở thành trụ cột thể chế và hội nhập pháp lý bắt đầu nổi lên như một yêu cầu tất yếu trong quá trình Việt Nam “bước ra thế giới”.
Trao đổi với Đời sống và Pháp luật, PGS.TS. Hà Hùng Cường – nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Bộ trưởng Bộ Tư pháp khẳng định công cuộc đổi mới đất nước theo Nghị quyết Đại hội VI của Đảng năm 1986 với chủ trương chuyển hướng sang quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng Pháp luật đã đem đến cho Bộ, ngành Tư pháp cơ hội vàng, nâng cao vị thế, vai trò của ngành trong tiến trình phát triển kinh tế xã hội và bảo đảm quốc phòng an ninh của đất nước sau 5 năm được thành lập lại.
Theo ông Cường, nhiệm vụ đầu tiên của ngành Tư pháp lúc bấy giờ là xây dựng hệ thống pháp luật như thế nào và từng đạo luật cụ thể ra làm sao để vừa kế thừa truyền thống pháp lệnh của đất nước từ thời kỳ phong kiến rồi thuộc địa rồi bị chia cắt vừa phù hợp với luật chơi phổ quát của thế giới đặc biệt với các nước có truyền thống pháp luật như nước ta.
“Quả thật là rất khó khăn. Bộ Tư pháp lúc đó cùng với các bộ ngành đã bắt tay vào việc nghiên cứu, tìm hiểu các hệ thống pháp luật nước ngoài và các điều ước quốc tế cả về công pháp và tư pháp quốc tế có liên quan để xây dựng những đạo luật đầu tiên của hệ thống pháp luật mới. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ra đời năm 1987 là kết quả của những nỗ lực ban đầu ấy, được trong và ngoài nước đánh giá cao tạo cú huých cho sự phát triển của đất nước sau khủng hoảng”, ông Cường nhớ lại.
Nhiệm vụ thứ hai đặt ra sau Đổi mới là việc tổ chức thi hành pháp luật như thế nào sau một thời kỳ dài quản lý đất nước bằng mệnh lệnh hành chính, phổ biến, giáo dục pháp luật làm sao để thực hiện được khẩu hiệu “Sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật” tổ chức lại các thiết chế thực thi pháp luật từ kiểm tra, thanh tra, xử phạt xét xử cả hình sự, dân sự, kinh tế như thế nào cho phù hợp với cơ chế quản lý mới mà sau này trở thành định hướng lớn xây dựng nhà nước pháp quyền, XHCN Việt Nam.
Câu chuyện tiếp theo và rất quan trọng là đào tạo nghề cho cán bộ công chức thực thi pháp luật ở tất cả các ngành đặc biệt là Công an, Kiểm sát, Toà án; Hình thành các nghề pháp luật theo hướng xã hội hoá như luật sư, công chứng sau này cả trọng tài thừa phát lại, đấu giá tài sản như thế nào, bắt đầu từ đâu?
Đó là những câu hỏi lớn đặt ra cho những năm cuối 1980 - đầu 1990. Và với trách nhiệm lớn của ngành, với tầm nhìn chiến lược của người đứng đầu lúc bấy giờ, Bộ Tư pháp đã nắm bắt kịp thời những cơ hội, vừa đánh vừa đào sâu nghiên cứu kinh nghiệm của đất nước. Nhất là thời kỳ mới giành được độc lập vừa tổ chức nghiên cứu kinh nghiệm của các nước, hệ thống pháp luật quốc tế tham mưu đề xuất với Đảng và nhà nước nhiều giải pháp đúng và trúng chuẩn bị cho giai đoạn bước ngoặt từ giữa thập niên 1990 đến giữa thập niên 2000.
Theo PGS.TS Hà Hùng Cường, bước ngoặt của quá trình hội nhập pháp lý cũng chính là khởi đầu của quá trình hội nhập quốc tế của đất nước, với định hướng chiến lược “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới” được thông qua tại Đại hội VII của Đảng năm 1991. Từ định hướng này mà chúng ta đã bình thường hoá quan hệ với Hoa Kỳ năm 1995, gia nhập ASEAN cũng năm đó, đàm phán ký kết hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ và đàm phán gia nhập WTO, gia nhập APEC. Quá quan trọng đúng không? Để thực hiện thành công các nhiệm vụ lớn lao này thì thể chế pháp luật và việc thực thi nó đóng vai trò rất quan trọng.
“Không phải ngẫu nhiên mà Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ lại có cả một chương: “các quy định liên quan tới minh bạch, công khai và quyền khiếu kiện” tại chương VI. Vì họ quá hiểu các điểm yếu của hệ thống pháp luật nước ta thời điểm đó dường như đón đầu được tất cả các thách thức đặt ra cho giai đoạn này mà Bộ Tư pháp đã đề xuất và được chính phủ chấp thuận cho tiếp nhận các dự án hợp tác pháp luật với Cộng hoà Pháp năm 1991, Thuỵ Điển năm 1991, Nhật Bản năm 1993, UNDP năm 1994. Qua đó đã hỗ trợ chúng ta tăng cường năng lực về xây dựng pháp luật, tổ chức thi hành pháp luật và đặc biệt là đào tạo cán bộ pháp luật kể cả về ngoại ngữ”, ông Cường nhớ lại.
Một trong những dấu ấn của quá trình hội nhập quốc tế về pháp luật là việc triển khai thành công dự án của Liên Hợp Quốc mà Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp cùng với các Bộ ngành liên quan nhất là Tòa án Nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao, Bộ Công an, Uỷ ban Pháp luật của Quốc hội, Văn phòng Chính phủ, Ban Nội chính Trung ương tổ chức nghiên cứu xây dựng một đề án lớn, toàn diện, sâu sắc gọi là “Đánh giá nhu cầu phát triển của hệ thống pháp luật Việt Nam” trình Chính phủ phê duyệt.
“Dự án đó lớn là bởi đã thu hút sự quan tâm của hầu hết các cơ quan trung ương, các tỉnh, thành phố trực thuộc TW, được tiến hành trong thời gian khá dài. Toàn diện và bao quát cả việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật, tổ chức thi hành pháp luật, cải cách các thiết chế, tài phán như chuyện trọng tài kinh tế thành toà án kinh tế, đến việc xây dựng các đại học luật mang tính trọng điểm, thành lập các cơ sở đào tạo nghề thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư, thành lập các liên đoàn luật sư,...
Sâu sắc là đi vào cụ thể, cần xây dựng mới hoặc trao đổi, bổ sung các đạo luật nào, lộ trình ra làm sao, cần kết kết những điều ước quốc tế nào hoặc gia nhập những công ước quốc tế nào,... Chẳng hạn, Luật đầu tư nước ngoài tại VN cho phép các nhà đầu tư lựa chọn tổ chức xét xử tranh chấp là trọng tài nước ngoài thì chúng ta phải gia nhập Công ước New York năm 1958 về công nhận và thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài, phải ban hành pháp lệnh về vấn đề này hoặc muốn thu hút đầu tư nước ngoài, muốn đào tạo luật sư Việt Nam ngang tầm khu vực, quốc tế thì phải cho phép các công ty luật có tiếng trên thế giới vào Việt Nam hành nghề”, ông Cường đánh giá.
Theo nguyên Bộ trưởng Bộ Tư pháp, kết quả nghiên cứu của đề án trên đã là một bước ngoặt quan trọng tạo cho chúng ta thế chủ động trong công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và đồng thời đem lại những hiệu ứng hết sức tích cực cho cho quá trình xây dựng nền tảng pháp luật theo nghĩa rộng của nó phục vụ đắc lực cho sự nghiệp hội nhập quốc tế của đất nước
Và cũng từ chính là được dựa trên kết quả đánh giá nhu cầu phát triển của hệ thống pháp luật Việt Nam mà năm 2005 Chính phủ đã nâng cấp xây dựng trình Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 48 về Chiến lược hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết 49 chiến lược cải cách Tư pháp đến năm 2020.
Nhìn lại cả chặng đường đưa pháp luật Việt Nam “bước ra thế giới”, ông Hà Hùng Cường cho biết, đó là cả một quá trình dài hơi, đòi hỏi sự nhạy bén trong tận dụng thời cơ, sự kiên định trong việc giữ vững bản sắc pháp lý quốc gia, và đặc biệt là tinh thần dám đương đầu, vượt qua những thách thức chưa từng có tiền lệ.
“Cho đến năm 2005 Bộ Tư pháp là cơ quan chủ trì, đầu mối điều phối hầu hết các dự án hợp tác pháp luật của các nước các tổ chức quốc tế với các bộ, ban, ngành Việt Nam. Lựa chọn lĩnh vực nội dung hợp tác với đối tác nào cho phù hợp với nhu cầu của đất nước, lại là thế mạnh của đối tác và lại không trùng lặp giữa các đối tác là điều không phải dễ dàng. Trao đổi kinh nghiệm về xây dựng Bộ Luật Dân sự thì không thể chọn UNDP vốn đóng trụ sở ở Hoa Kỳ được, sửa đổi Bộ Luật Dân sự năm 1995 thành các Bộ Luật Dân sự mới năm 2005, năm 2015 thì phải hợp tác chặt chẽ với Nhật Bản xây dựng Luật Công chứng thì không thể vận dụng được kinh nghiệm của các nước luật thông lệ, hoặc là xây dựng Liên Đoàn Luật sư Việt Nam thì không thể theo mô hình Anh - Mỹ được.
Cá nhân tôi trong suốt quá trình đó các chính khách nước ngoài, các nhà đầu tư nước ngoài luôn đặt một câu hỏi: Việt Nam theo hệ thống pháp luật nào? Dân sự (La-tinh) hay thông luật? Câu trả lời trước sau vẫn là dân sự, mặc dù biết rằng mỗi hệ thống có những lợi thế riêng của nó, nhưng đã là truyền thống rồi thì không thể khác được”, ông Cường chia sẻ.
Cũng theo ông Cường, ở giai đoạn đầu những năm 1990, cũng có những nghi ngờ đặt ra là tại sao lại hợp tác với Pháp để xây dựng Bộ Luật Dân sự liệu có bị chệch hướng không? Và điều đó cũng khơi mào cho một cuộc tranh luận trong giới luật học.
“Tôi được đào tạo ở Liên Xô cũ, khi được giới thiệu về Bộ Luật Dân sự của Pháp hoặc khi nghiên cứu các công ước của hội nghị La Hay về tư pháp quốc tế tôi mới ngộ ra rằng đời sống dân sự ở các nước khác nhau nhưng có chung những nguyên tắc ứng xử và thậm chí có những quy tắc xử sự như nhau dù dưới dạng quy phạm pháp luật hay tập quán. Hoàng đế Napoleon ông không phải là nhà luật thiên tài gì mà trong vòng 1-2 năm đã tổ chức xây dựng xong Bộ Luật Dân sự ở Pháp năm 1804 rất đồ sộ mà chính là vì ông đã chỉ đạo Pháp điển hoá tất cả các quy tắc xử sự trong đời sống dân sự ở Châu Âu lục địa từ thời La Mã cổ đại thành Bộ luật này.
Càng phải nói thêm rằng ở thời kỳ Canh tân của Nhật Bản nửa cuối thế kỷ 19, Hoàng đế Minh Trị đã cho áp dụng nguyên văn Bộ Luật Dân sự của Đức ở nước mình và một phần nhờ đó đã giúp Nhật Bản trở thành một quốc gia hiện đại.
Qua hai ví dụ trên chúng ta thấy ở mặt nào đó pháp luật cũng là thành tựu chung của nhân loại đấy chứ. Đành rằng pháp luật mỗi nước có sự khác biệt về truyền thống lịch sử văn hoá hệ thống chính trị,... nhưng cũng có nhiều điểm chung và nếu biết khai thác những điểm chung đó để vận dụng cho đất nước mình thì không e ngại gì khó khăn thách thức”, ông Cường phân tích về sự khó khăn trong việc lựa chọn mô hình pháp luật.
Giờ đây nhìn lại chúng ta có thể tự hào rằng, mọi khó khăn thách thức của thời kỳ đầu, “mở cửa” hội nhập pháp luật với thế giới, đưa pháp luật Việt Nam ra thế giới đã lùi xa. Nhìn lại hành trình hơn bốn thập niên kể từ Đổi mới, có thể khẳng định rằng, hội nhập pháp lý không còn là phần việc kỹ thuật, mà đã trở thành một trụ cột chiến lược trong tiến trình hội nhập quốc tế, giúp Việt Nam tự tin “bước ra thế giới” trên nền tảng pháp luật.