Hội nhập quốc tế trong giai đoạn hiện nay không chỉ dừng lại ở việc tuân thủ luật chơi toàn cầu, mà đang chuyển sang một nấc thang cao hơn: chủ động định hình và dẫn dắt luật chơi. Để hiện thực hóa điều đó, Việt Nam nhất thiết cần hoàn thiện thể chế để biến đây thành một lợi thế cạnh tranh chiến lược, một động lực bền vững cho phát triển quốc gia trong giai đoạn mới. Và hội nhập quốc tế về pháp luật tiếp tục đóng một vai trò quan trọng trong định hướng đó.
Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới đã nhấn mạnh quan điểm: “Xây dựng pháp luật phải bám sát thực tiễn, “đứng trên mảnh đất thực tiễn của Việt Nam”, tiếp thu có chọn lọc giá trị tinh hoa của nhân loại, bảo đảm tính hệ thống, nắm bắt mọi cơ hội, mở đường, khơi thông mọi nguồn lực, đưa thể chế, pháp luật trở thành lợi thế cạnh tranh, nền tảng vững chắc, động lực mạnh mẽ cho phát triển…”. Đáng chú ý, Nghị quyết 66 cũng đặt ra yêu cầu phải “mở rộng hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp…”.
Cùng tinh thần đó, Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24/1/2025 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trong tình hình mới xác định hội nhập là động lực chiến lược để Việt Nam vững bước vào kỷ nguyên mới, đồng thời thể hiện tầm nhìn sâu sắc: hội nhập quốc tế không chỉ là mở cửa, giao lưu, mà là một sự nghiệp tổng hợp, đòi hỏi sự chủ động, tích cực và rất có bản lĩnh. Trong đó, một trong bảy phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp lớn được đề ra là “Nâng cao năng lực thực thi các cam kết, thoả thuận quốc tế gắn với tăng cường công tác kiểm tra, giám sát thực thi và đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật trong nước”.
Những định hướng quan trọng này khẳng định vai trò then chốt của hội nhập pháp lý trong chiến lược phát triển quốc gia. Không phải ngẫu nhiên, chỉ ít lâu sau khi đảm nhiệm cương vị người đứng đầu Đảng, Tổng Bí thư Tô Lâm đã có buổi làm việc với Ban Cán sự Đảng Bộ Tư pháp (tháng 11/2024) và một trong những nhiệm vụ trọng tâm được Tổng Bí thư đặt ra là: “Nâng cao vai trò của Bộ, ngành Tư pháp trong tham gia xây dựng thể chế và pháp luật quốc tế, nâng cao trách nhiệm phòng ngừa, giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế, xử lý hiệu quả các vấn đề pháp lý phát sinh trong quá trình hội nhập quốc tế, kịp thời bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của cá nhân, tổ chức, cơ quan nhà nước Việt Nam”.
Chia sẻ với Người Đưa Tin, ông Nguyễn Khánh Ngọc – Chủ tịch Hội Luật gia Việt Nam, nguyên Thứ trưởng Bộ Tư pháp nhấn mạnh nền tảng pháp luật đã từng là bệ đỡ để Việt Nam mở cửa và đổi mới. Trong kỷ nguyên mới, yêu cầu đối với hội nhập quốc tế về pháp luật phải là tạo được lợi thế cạnh tranh cho đất nước vươn mình. Và lợi thế cạnh tranh từ thể chế pháp luật được thể hiện trên cả hai chiều: tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong nước vươn ra thế giới và tạo sức hút đối với đầu tư, thương mại quốc tế đi vào Việt Nam.
Theo đó, tại các quốc gia phát triển, thể chế pháp lý minh bạch, công bằng và hiệu quả chính là nền tảng cho môi trường kinh doanh thuận lợi. Đây là điểm cốt lõi giúp doanh nghiệp “chơi đúng luật” và yên tâm đầu tư dài hạn. Ngược lại, với các nhà đầu tư nước ngoài, thể chế không minh bạch, khó dự đoán chính là yếu tố khiến họ dè dặt. “Chúng ta có thể không cần xúc tiến đầu tư rầm rộ nếu thể chế đủ hấp dẫn người ta sẽ tự tìm đến. Cái cần là chính mình phải làm tốt, minh bạch hóa, số hóa, đồng bộ hóa – luật pháp là “cổng chào” chứ không phải là “rào cản”” ông Ngọc nhấn mạnh.
Bên cạnh việc tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, một hệ thống pháp luật có chất lượng cao còn là yếu tố giúp nâng tầm đội ngũ cán bộ nhà nước. Khi thể chế ngày càng tiệm cận các chuẩn mực quốc tế, chính đội ngũ thực thi cũng được rèn luyện, nâng cao năng lực. Điều đó giúp Việt Nam không chỉ tham gia cuộc chơi toàn cầu mà còn từng bước có tiếng nói trong việc định hình luật chơi – điều không thể thiếu trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược đang gia tăng trên mọi mặt trận.
Tuy nhiên, hội nhập về pháp luật không phải là con đường dễ đi. “Pháp luật luôn là lĩnh vực nhạy cảm bậc nhất, bởi nó liên quan đến thượng tầng kiến trúc và chủ quyền quốc gia. Chúng ta phải cực kỳ tỉnh táo, bởi lằn ranh giữa mở cửa để hội nhập và bị áp đặt từ bên ngoài là rất mong manh”, Chủ tịch Hội Luật gia Việt Nam đặt vấn đề.
Bài học từ một số quốc gia Đông Âu hay Trung Đông vẫn còn nguyên giá trị cảnh báo: cải cách thể chế thiếu kiểm soát có thể dẫn tới những cú sốc chính trị không thể cứu vãn. Vì vậy, nguyên tắc cốt lõi trong mọi bước hội nhập phải là bảo vệ tối thượng lợi ích quốc gia, dân tộc. “Không ai cho không cái gì, vấn đề là tìm được điểm đồng để hợp tác và hạn chế xung đột. Chúng ta hội nhập để phát triển, chứ không chệch hướng”, ông Ngọc nói.
Không chỉ là công cụ kỹ thuật, hội nhập quốc tế về pháp luật chính là “cửa ngõ thể chế” mở ra con đường phát triển bền vững. “Chúng ta phải tham gia cuộc chơi để góp phần làm luật chơi, chứ không chỉ đơn thuần là đi theo”, ông Nguyễn Khánh Ngọc đúc kết.
Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, nhiều chuyên gia đồng tình cho rằng Việt Nam cần đẩy mạnh hơn nữa vai trò “ngoại giao pháp lý” và tích cực tham gia định hình các cơ chế pháp lý khu vực và toàn cầu. Đây không chỉ là lựa chọn mà là yêu cầu cấp thiết nếu chúng ta muốn bảo vệ vững chắc lợi ích quốc gia, nâng cao vị thế và tham gia vào quá trình kiến tạo trật tự quốc tế mới.
Theo ĐBQH Trịnh Thị Tú Anh (Đoàn Lâm Đồng), thế giới đang bước vào giai đoạn biến động sâu sắc, với đặc trưng là đa cực, đa trung tâm, cạnh tranh chiến lược gay gắt và sự nổi lên của các vấn đề phi truyền thống như an ninh mạng, biến đổi khí hậu, dịch bệnh toàn cầu… Trong bối cảnh đó, ngoại giao pháp lý nổi lên như một “công cụ mềm nhưng có sức nặng cứng”, giúp các quốc gia khẳng định chủ quyền, bảo vệ lợi ích và định hình luật chơi một cách văn minh, dựa trên luật pháp.
Một trong những minh chứng rõ nét là cách Việt Nam kiên trì bảo vệ lập trường về Biển Đông trên nền tảng luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS 1982. “Ngoại giao pháp lý đã giúp chúng ta không chỉ có cơ sở pháp lý vững chắc, mà còn tranh thủ được sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế trên các diễn đàn đa phương”, bà Tú Anh nhấn mạnh.
Việc đẩy mạnh “ngoại giao pháp lý” cũng đồng nghĩa với việc Việt Nam không chỉ đóng vai trò là người tuân thủ luật chơi, mà từng bước trở thành người kiến tạo luật chơi. Tham gia sâu vào quá trình hình thành các công ước, hiệp ước, nghị quyết quốc tế sẽ giúp Việt Nam đảm bảo các quy tắc mới không gây bất lợi cho mình, đồng thời phản ánh được các lợi ích và quan điểm riêng của nước ta.
Trong phạm vi khu vực, Việt Nam có thể phát huy vai trò tại ASEAN bằng cách chủ động hơn trong xây dựng các khung pháp lý chung từ Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á (TAC) cho tới các nghị định thư về giải quyết tranh chấp. Những đóng góp này không chỉ giúp hình thành một khu vực ổn định, dựa trên luật lệ, mà còn tăng cường uy tín và ảnh hưởng của Việt Nam.
Ở tầm toàn cầu, Việt Nam cần tích cực tham gia vào các thiết chế pháp lý như Liên Hợp Quốc và các tổ chức chuyên môn như ICAO, IMO, WIPO… “Việc định hình các khung pháp lý quốc tế trong các lĩnh vực mới nổi – từ AI, dữ liệu xuyên biên giới cho đến không gian mạng hay biến đổi khí hậu đang được thực hiện. Nếu không tham gia từ sớm, chúng ta sẽ ở thế bị động,” bà Tú Anh lưu ý.
Để làm được điều này, đòi hỏi Việt Nam phải đầu tư nghiêm túc vào đội ngũ chuyên gia pháp lý có tư duy toàn cầu, hiểu biết luật pháp quốc tế và có năng lực đàm phán, phản biện, hoạch định chính sách. Đây là lực lượng nòng cốt không chỉ trong các cuộc đàm phán, tranh tụng, mà còn trong việc phản biện chính sách, bảo vệ lợi ích Việt Nam trên bàn cờ pháp lý thế giới.
“Muốn hội nhập sâu, hội nhập chủ động, chúng ta không thể chỉ đi sau, mà phải cùng tham gia thiết kế luật chơi và thậm chí dám dẫn dắt luật chơi trong những lĩnh vực mình có thế mạnh hoặc lợi ích cốt lõi,” ĐBQH Trịnh Thị Tú Anh nhấn mạnh.
Đồng tình với quan điểm cần đẩy mạnh vai trò “ngoại giao pháp lý” và tham gia định hình luật chơi toàn cầu, ĐBQH Phạm Văn Hòa – Ủy viên Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội cho rằng đây là xu thế tất yếu trong bối cảnh Việt Nam đã là thành viên tích cực của Liên Hợp Quốc và nhiều tổ chức quốc tế, cũng như đối tác trong nhiều khuôn khổ hợp tác song phương, đa phương.
Theo ông Hòa, trong tiến trình hội nhập, việc hiểu biết và vận dụng tốt các nguyên tắc, quy chuẩn pháp lý quốc tế là yêu cầu bắt buộc. “Chúng ta là một quốc gia độc lập, có bản lĩnh và lập trường riêng, nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc đứng ngoài dòng chảy chung của hệ thống pháp luật quốc tế”, ông nhấn mạnh.
Thực tế cho thấy, đặc biệt trong các lĩnh vực như kinh tế, thương mại và an ninh, pháp luật quốc tế đang ngày càng chi phối sâu rộng. Nếu không xây dựng hệ thống pháp luật tương thích, Việt Nam sẽ gặp khó khăn trong việc tham gia sân chơi toàn cầu, thậm chí chịu thiệt trong các giao dịch thương mại hoặc tranh chấp pháp lý quốc tế.
“Chúng ta không thể làm luật một cách biệt lập. Khi doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu hàng hóa, ký hợp đồng với đối tác nước ngoài, nhưng luật trong nước lại thiếu những quy định tương thích với chuẩn mực quốc tế, thì rõ ràng sẽ bị đặt vào thế bất lợi,” ông Hòa phân tích.
Do đó, theo ông Hòa việc xây dựng pháp luật, đặc biệt là pháp luật về kinh tế, thương mại cần đặt trong mối quan hệ đối tác và hợp tác quốc tế. Vừa bảo đảm lợi ích quốc gia, vừa phù hợp với thông lệ và cam kết quốc tế, đó là cách để Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh, đồng thời giữ vững vị thế trong hội nhập sâu rộng toàn cầu.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và đa chiều, ngành Tư pháp Việt Nam đứng trước yêu cầu chủ động, tích cực tham gia vào việc định hình và thực thi các chuẩn mực pháp lý quốc tế. Điều đó đồng nghĩa với việc chúng ta cần đóng vai trò trong việc xây dựng “luật chơi” chung của thế giới.
Theo TS. Nguyễn Xuân Thu – Giám đốc Học viện Tư pháp - đơn vị nòng cốt trong đào tạo các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp và bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức làm công tác pháp luật hiện nay, yêu cầu mới đang đặt ra cho công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực pháp lý hiện nay một nhiệm vụ hết sức toàn diện, sâu sắc và mang tính chiến lược lâu dài.
Theo TS. Nguyễn Xuân Thu, trước hết, cần phải nâng cao tư duy pháp lý mang tính toàn cầu và năng lực so sánh pháp luật cho đội ngũ cán bộ. Nhân lực pháp lý ngày nay không thể chỉ dừng lại ở việc nắm vững pháp luật trong nước mà cần có tầm nhìn quốc tế, khả năng đối chiếu, phân tích và đánh giá pháp luật của nhiều quốc gia và pháp luật quốc tế. Đây là tiền đề để đội ngũ của chúng ta có thể tham gia hiệu quả vào quá trình đàm phán, góp ý, xây dựng điều ước quốc tế cũng như xử lý các tranh chấp xuyên biên giới một cách chủ động.
“Chúng ta cần trang bị cho người học năng lực xây dựng và thực thi pháp luật phù hợp với các chuẩn mực quốc tế. Trong điều kiện hội nhập, cán bộ pháp lý phải đủ khả năng xây dựng chính sách, pháp luật trong nước theo hướng hài hòa với cam kết quốc tế, đảm bảo lợi ích quốc gia nhưng vẫn tuân thủ các nguyên tắc chung. Đồng thời, họ cũng phải có đủ năng lực để tham gia đóng góp vào quá trình hoạch định pháp luật quốc tế và bảo vệ lập trường quốc gia tại các diễn đàn đa phương như ASEAN, WTO, cũng như các tổ chức, cơ quan chuyên môn như UNCITRAL, ICSID hoặc Hội nghị La Hay về Tư pháp Quốc tế (HCCH)....”, Giám đốc Học viện Tư pháp phân tích.
Đặc biệt, các kỹ năng pháp lý chuyên sâu trong bối cảnh hội nhập quốc tế cũng cần được đào tạo một cách bài bản. “Chúng ta đang rất cần những cán bộ có thể đảm đương việc đàm phán, soạn thảo hợp đồng quốc tế; tham gia giải quyết tranh chấp tại các thiết chế như trọng tài hoặc tòa án quốc tế; phân tích tác động pháp lý của các FTA hoặc tư vấn hiệu quả trong các lĩnh vực pháp lý mới như thương mại điện tử, chuyển đổi số, sở hữu trí tuệ, môi trường và năng lượng tái tạo”, TS. Nguyễn Xuân Thu nói.
Bên cạnh đó, ngoại ngữ pháp lý và kỹ năng giao tiếp quốc tế cần được coi là điều kiện bắt buộc trong đào tạo. Tiếng Anh chuyên ngành không còn là lợi thế mà là tiêu chuẩn tối thiểu. Bên cạnh đó, kỹ năng trình bày, bảo vệ quan điểm pháp lý trong các môi trường đa văn hóa cũng là yếu tố chúng ta cần đầu tư đúng mức.
Trước yêu cầu mới, các cơ sở đào tạo pháp lý phải đi đầu trong nghiên cứu và chuyển giao tri thức pháp lý hiện đại. Đào tạo cần gắn liền với nghiên cứu khoa học pháp lý, đặc biệt là các chủ đề có tính liên ngành và liên khu vực như trí tuệ nhân tạo và pháp luật, an ninh phi truyền thống, biến đổi khí hậu, ESG... Chúng ta cũng cần đẩy mạnh việc tiếp thu và chuyển giao các mô hình, kinh nghiệm từ hệ thống pháp luật tiên tiến nhằm tạo ra đội ngũ chuyên gia có tư duy phản biện và khả năng đổi mới sáng tạo.
Hợp tác quốc tế trong đào tạo và thực hành cần được thúc đẩy một cách bài bản, có chiến lược. Việc liên kết đào tạo với các trường luật danh tiếng, cử học viên và giảng viên tham gia thực tập, nghiên cứu, trao đổi học thuật tại nước ngoài là bước đi thiết thực để tiệm cận với các chuẩn mực nghề nghiệp toàn cầu.
“Nếu chúng ta thực sự mong muốn ngành Tư pháp Việt Nam “sánh vai” cùng các quốc gia trong việc định hình “luật chơi” toàn cầu thì không thể không đổi mới căn bản và toàn diện công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực pháp lý. Đây là nhiệm vụ cấp thiết, đồng thời cũng là điều kiện tiên quyết để nước ta khẳng định vai trò, vị thế và bảo vệ lợi ích quốc gia trong môi trường pháp lý toàn cầu hóa”, Giám đốc Học viện Tư pháp nói.
Chia sẻ thêm về định hướng và kết quả của việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, TS. Nguyễn Xuân Thu cho biết ngành Tư pháp đang từng bước hình thành được đội ngũ cán bộ pháp lý “vừa hồng vừa chuyên” – tức là hội tụ cả phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp lẫn năng lực chuyên môn pháp lý vững vàng trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng.
“Trong quá trình đào tạo tại Học viện Tư pháp, công tác giáo dục bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề nghiệp cho người học luôn được đặc biệt chú trọng thông qua các môn học trong từng chương trình đào tạo. Bên cạnh đó, các hội nghị, tọa đàm chuyên sâu về đạo đức nghề nghiệp, chính trị tư tưởng đã được tổ chức cho cả giảng viên và học viên với sự phối hợp chặt chẽ của Vụ Công tác nội chính – Ban Nội chính Trung ương, Cục An ninh chính trị nội bộ - Bộ Công an, Cục Bổ trợ tư pháp - Bộ Tư pháp. Các hoạt động này đã khơi dậy lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc, ý thức trách nhiệm với đất nước, đồng thời giúp người học hình thành nền tảng về đạo đức, bản lĩnh nghề nghiệp và ý thức bảo vệ công lý, tham gia xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội hội chủ nghĩa Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng.
Công tác bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức làm công tác hội nhập quốc tế cũng luôn được chú trọng với nhiều mô – đun pháp luật quốc tế gắn với các chủ đề thiết thực, từ đó góp phần nâng cao kiến thức, kỹ năng thực tiễn cho cán bộ, công chức, viên chức làm công tác hội nhập quốc tế và khả năng đề xuất được những chính sách phù hợp với bối cảnh trong nước và quốc tế hiện nay.
Nhiều khóa đào tạo tiếng Anh pháp lý đã được tổ chức cho công chức, viên chức ngành Tư pháp nhằm tăng cường năng lực ngoại ngữ, sẵn sàng tham gia các công việc liên quan đến pháp luật quốc tế và thị trường dịch vụ pháp lý có yếu tố nước ngoài.
Các hoạt động nghiên cứu khoa học nhằm phát triển “hệ sinh thái học thuật” bền vững, đủ sức tạo nguồn cán bộ pháp lý có tri thức vững, đạo đức chuẩn và năng lực thực hành nghề nghiệp thành thục trong môi trường hội nhập quốc tế cũng đã được triển khai, quay trở lại phục vụ đắc lực cho công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực pháp lý”, Giám đốc Học viện Tư pháp chia sẻ.