img

Trong những năm đầu Đổi mới, trong bối cảnh đất nước bị bao vây, cấm vận, việc từng bước tiếp cận và vận dụng các chuẩn mực pháp lý quốc tế đã góp phần quan trọng vào việc phá thế cô lập, tạo cơ sở pháp lý cho bình thường hóa quan hệ đối ngoại. Đặc biệt với Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ (BTA) và gia nhập WTO không những giúp năng lực pháp lý quốc tế của Việt Nam được cải thiện mà còn tạo thuận lợi căn bản cho quá trình hội nhập quốc tế về sau. Trong các giai đoạn sau đó, khi Việt Nam ký kết hàng loạt hiệp định thương mại tự do (FTA), bao gồm cả các FTA thế hệ mới thì hội nhập quốc tế về pháp luật càng trở thành yêu cầu bắt buộc để đảm bảo thực thi đầy đủ, hiệu quả các cam kết, đồng thời bảo vệ lợi ích quốc gia trong một “luật chơi” toàn cầu ngày càng phức tạp và ràng buộc lẫn nhau.

Không dừng lại ở vai trò kỹ thuật, hội nhập pháp luật đã trở thành nền tảng thể chế quan trọng, góp phần kiến tạo một môi trường pháp lý minh bạch, ổn định, có thể dự đoán được từ đó khơi thông cánh cửa cho thu hút đầu tư, thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng trưởng và hiện đại hóa quản trị quốc gia. Đặc biệt, nhờ vào việc chủ động nội luật hóa các cam kết quốc tế, tiếp thu chọn lọc các thành tựu pháp lý tiến bộ, hệ thống pháp luật Việt Nam không chỉ ngày càng tương thích với thông lệ quốc tế mà còn từng bước nâng tầm, trở thành công cụ điều tiết và kiến tạo phát triển thay vì chỉ là phương tiện hành chính.

img

Hội nhập quốc tế về pháp luật, vì thế, không chỉ là cầu nối ra thế giới, mà còn là bệ đỡ để công cuộc Đổi mới phát triển theo hướng vững chắc, bài bản, tránh được các cú sốc thể chế hay lệ thuộc mô hình bên ngoài.

Chính nhờ có nền tảng này, Việt Nam đã kiên định và giữ vững được định hướng xã hội chủ nghĩa trong suốt quá trình hội nhập - điều mà không nhiều quốc gia có thể làm được trong bối cảnh toàn cầu hóa sâu rộng. Nói cách khác, hội nhập quốc tế về pháp luật là thước đo bản lĩnh thể chế, là điểm tựa để Việt Nam hội nhập mà không hòa tan, mở cửa mà không chệch hướng.

img

Nếu như những năm đầu hội nhập, Việt Nam tiếp cận thế giới với tâm thế dè dặt, thì ngày nay, sau hơn bốn thập niên chuyển mình, nhất là gần 20 năm vừa qua, hội nhập quốc tế về pháp luật đã trở thành một kênh chủ lực, phản ánh rõ nét sự trưởng thành về tư duy, thể chế và năng lực nội tại của Việt Nam. Trao đổi với Người Đưa Tin, ông Nguyễn Khánh Ngọc – Chủ tịch Hội Luật gia Việt Nam, nguyên Thứ trưởng Bộ Tư pháp – người nhiều năm gắn bó với công tác hội nhập và hợp tác quốc tế của ngành Tư pháp, đã hệ thống 5 trụ cột nổi bật của quá trình này.

Trụ cột đầu tiên và nền tảng chính là sự thay đổi sâu sắc trong tư duy, nhận thức của cả hệ thống chính trị và đội ngũ làm pháp luật về hội nhập quốc tế.

img

Theo ông Nguyễn Khánh Ngọc, từ sau năm 1995 khi Việt Nam bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ và gia nhập ASEAN, chúng ta mới thực sự hiểu hội nhập quốc tế là gì, cả về cơ hội lẫn thách thức. Hội nhập không đơn thuần là ký kết, mà là tham gia một “cuộc chơi toàn cầu” mà nếu không thận trọng, pháp luật có thể bị lôi kéo vào các xung đột chính trị, thậm chí dẫn đến thay đổi thể chế. Vì vậy, sự tỉnh táo, bản lĩnh và hiểu rõ bản chất của hội nhập chính là thành công quan trọng nhất. Giới làm luật Việt Nam ngày nay đã nhuần nhuyễn hơn trong việc đánh giá rủi ro, xác định vị thế và lợi ích cần bảo vệ. Đây là sự chuyển biến mang tính gốc rễ.

Trụ cột thứ hai chính là từ nền tảng tư duy mới, hệ thống pháp luật Việt Nam đã được hoàn thiện tương đối đầy đủ theo hướng hài hòa với chuẩn mực quốc tế, nhưng vẫn giữ vững nguyên tắc “hội nhập nhưng không hòa tan”. Bởi lẽ, bất kỳ quốc gia nào khi tham gia các cam kết quốc tế đều phải bảo đảm tuân thủ, nhưng nếu không hiểu rõ nội dung và cách thực hiện thì sẽ rơi vào thế bị động, dễ tổn thương lợi ích quốc gia.

img

“Trong suốt quá trình đàm phán và thực thi các hiệp định thương mại lớn như BTA, WTO hay các FTA thế hệ mới, Việt Nam luôn nỗ lực sửa đổi pháp luật theo hướng bảo đảm thực hiện đầy đủ nghĩa vụ quốc tế mà vẫn giữ được chủ quyền lập pháp. Việc minh bạch hóa quy trình xây dựng pháp luật – một yêu cầu bắt buộc từ BTA đã góp phần cải cách cách thức ban hành văn bản trong nước. Không còn tình trạng “doanh nghiệp đang nhập hàng, giữa đường có lệnh cấm” mà thay vào đó là quy trình rõ ràng, có thể dự báo, có thời gian để thích ứng”, ông Nguyễn Khánh Ngọc phân tích.

Trong quá trình Việt Nam tham gia các điều ước quốc tế, Bộ Tư pháp giữ vai trò nòng cốt trong việc tham gia xây dựng phương án đàm phán và bảo đảm kết quả đàm phán phù hợp với pháp luật quốc tế và khả thi để thực hiện trong điều kiện pháp luật Việt Nam. Sau đó, Bộ Tư pháp tiếp tục thẩm định các điều ước quốc tế, rà soát tổng thể các quy phạm pháp luật của Việt Nam để tham mưu, đề xuất sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Trên cơ sở hệ thống pháp luật đã được điều chỉnh, chúng ta lại có thêm sự vững tin để đàm phán các điều ước, cam kết quốc tế mới. Thực tế cho thấy những vấn đề mà chúng ta đã có luật trong nước quy định thì rất thuận lợi cho quá trình đàm phán, ngược lại những vấn đề chưa có luật quy định thì đàm phán rất khó khăn.

img

“Một quy trình như vậy được lặp đi lặp lại liên tục trong suốt nhiều năm qua và kết quả là pháp luật Việt Nam ngày càng tiệm cận với chuẩn pháp luật quốc tế đồng thời phục vụ tốt cho quá trình Việt Nam mở cửa, hội nhập”, Chủ tịch Hội Luật gia Việt Nam khẳng định.

Trụ cột quan trọng thứ ba là sự trưởng thành của Việt Nam trong xử lý tranh chấp pháp lý quốc tế – lĩnh vực được coi là “đặc sản” của Bộ Tư pháp. Từ khi gia nhập WTO, Bộ Tư pháp đã duy trì cán bộ thường trực tại Geneva, tham gia xử lý các tranh chấp theo cơ chế của tổ chức này. Đồng thời, lĩnh vực giải quyết tranh chấp đầu tư giữa Nhà nước và nhà đầu tư nước ngoài cũng được chú trọng.

“Bộ Tư pháp đóng vai trò quan trọng trong việc xử lý các vấn đề pháp lý phát sinh trong quá trình hội nhập. Các thắc mắc, khiếu nại, khiếu kiện trong quá trình hội nhập thông thường Bộ Tư pháp sẽ chủ trì hoặc phối hợp với các bộ, ngành liên quan để giải quyết”, ông Nguyễn Khánh Ngọc chia sẻ.

Trên thực tế, đây không chỉ là quá trình bảo vệ lợi ích pháp lý, mà còn là “trường học thực tiễn” giúp Việt Nam nâng cao hiểu biết, kỹ năng và sự chủ động trong luật chơi toàn cầu. Những vụ tranh chấp đầu tiên là “bài học đau xót nhưng cần thiết”, để từ đó từng bước nâng cao năng lực tự bảo vệ mình.

img

Trụ cột thứ tư là sự tham gia ngày càng sâu rộng của Việt Nam vào các khuôn khổ pháp lý đa phương và song phương. Theo đó, Việt Nam đã ký kết hàng loạt điều ước quốc tế đa phương trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp, kể cả về quyền con người. Hệ thống hiệp định tương trợ tư pháp trong cả bốn lĩnh vực: dân sự, hình sự, dẫn độ và chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù đã được mở rộng, giúp tạo nền tảng pháp lý cho xử lý các vụ việc có yếu tố nước ngoài.

“Bộ Tư pháp đã trực tiếp chủ trì đàm phán các điều ước quốc tế liên quan đến tương trợ tư pháp về dân sự, phối hợp với Bộ Công an trong đàm phán các điều ước quốc tế liên quan đến tương trợ tư pháp về dẫn độ và chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù, phối hợp với Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao trong đàm phán các điều ước quốc tế liên quan đến tương trợ tư pháp về hình sự. Trong những năm đầu của hội nhập quốc tế, chính sự tiên phong của Bộ Tư pháp đã trở thành chỗ dựa cho nhiều bộ, ngành khác mạnh dạn mở rộng hợp tác quốc tế”, ông Nguyễn Khánh Ngọc nhấn mạnh.

Đặc biệt, Việt Nam đã chủ động hiện diện trong nhiều thiết chế pháp lý khu vực và toàn cầu, như Hội nghị LaHay về tư pháp quốc tế, Ủy ban Luật pháp quốc tế của Liên Hợp Quốc, Hội nghị Bộ trưởng Tư pháp các nước ASEAN, Hội nghị Quan chức Pháp luật cao cấp ASEAN... Đặc biệt, trong khuôn khổ ASEAN, Việt Nam đã chủ động, tích cực tham gia các khuôn khổ hợp tác khu vực và có nhiều đóng góp tích cực vào sự phát triển chung của ASEAN, dần vươn lên đóng vai trò nòng cốt, dẫn dắt trong nhiều vấn đề của khối, trong đó có vấn đề tư pháp và pháp luật. Trong khuôn khổ Liên Hợp Quốc, Việt Nam đã trúng cử hai liền liên tiếp vị trí thành viên Ủy ban Luật Thương mại quốc tế của Liên Hợp Quốc, nhiệm kỳ 2019 – 2025 và 2025-2031, đại diện của Việt Nam cũng là thành viên Ủy ban Luật pháp quốc tế (ILC) của Liên Hiệp Quốc nhiệm kỳ 2017 – 2021 và 2023-2027.

img

Không chỉ các cơ quan tư pháp như Bộ Công an, Tòa án Nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, mà cả Hội Luật gia Việt Nam và nhiều tổ chức quần chúng khác cũng đã tích cực tham gia. Đây chính là bước chuyển từ “đi sau để học hỏi” sang “có tiếng nói trong bàn tròn toàn cầu” trong lĩnh vực pháp luật.

Trụ cột cuối cùng chính là nhân tố con người. Trong vài thập niên gần đây, đội ngũ cán bộ pháp luật Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc cả về năng lực chuyên môn, tư duy quốc tế, kỹ năng ngoại ngữ và năng lực đàm phán. Quá trình hội nhập buộc cán bộ phải trực tiếp xử lý các tình huống pháp lý có yếu tố nước ngoài, phải hiểu cam kết, hiểu luật chơi và đủ bản lĩnh bảo vệ lợi ích quốc gia. Lực lượng pháp chế các bộ, ngành, nhất là ở các đơn vị như Bộ Công Thương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, đã chủ trì đàm phán nhiều nội dung cam kết phức tạp.

Bên cạnh đó, đội ngũ luật sư, luật gia và các ngành nghề tư pháp cũng là một lực lượng quan trọng, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam mở cửa thị trường dịch vụ pháp lý. Sự cạnh tranh trong khu vực và quốc tế đặt ra yêu cầu tự nâng cấp không ngừng của đội ngũ hành nghề luật.

img
img

Nhìn lại công cuộc Đổi mới trong 40 năm qua, ĐBQH Trịnh Thị Tú Anh (Đoàn Lâm Đồng) cho rằng giữa hội nhập quốc tế và hệ thống pháp luật có mối quan hệ tương hỗ chặt chẽ. Theo đó, quá trình hội nhập quốc tế đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với năng lực thể chế của các quốc gia, trong đó, hệ thống pháp luật đóng vai trò cốt lõi. Việc điều chỉnh hệ thống pháp luật để tương thích với chuẩn mực và thông lệ quốc tế không chỉ là đòi hỏi bắt buộc từ các cam kết, mà còn là điều kiện cần thiết để tạo lập một môi trường pháp lý ổn định, minh bạch, có thể dự đoán, từ đó thu hút đầu tư, thúc đẩy thương mại và bảo vệ lợi ích quốc gia. Ngược lại, chính việc hoàn thiện hệ thống pháp luật lại giúp con đường hội nhập ngày càng rộng mở và thuận lợi, là cơ sở để Việt Nam từ hội nhập kinh tế quốc tế đến hội nhập quốc tế toàn diện.

Cũng theo ĐBQH Trịnh Thị Tú Anh, trong tiến trình này, ngành Tư pháp và hệ thống pháp luật Việt Nam đã đóng vai trò nòng cốt, thể hiện trên nhiều phương diện quan trọng. Trước hết, Bộ Tư pháp đã chủ động tham gia đàm phán và ký kết nhiều điều ước quốc tế quan trọng. Với vai trò là cơ quan chuyên trách về pháp luật, Bộ đã cử nhiều chuyên gia đóng góp ý kiến pháp lý trong quá trình đàm phán các FTA thế hệ mới như CPTPP, EVFTA, RCEP.

img

“Các chuyên gia pháp lý không chỉ phân tích rủi ro pháp lý tiềm ẩn mà còn góp phần giữ vững nguyên tắc chủ quyền pháp luật quốc gia, bảo vệ lợi ích Việt Nam trong các lĩnh vực nhạy cảm như sở hữu trí tuệ, đầu tư, dịch vụ xuyên biên giới,” bà Tú Anh chia sẻ.

Một nhiệm vụ trọng tâm khác là nội luật hóa các cam kết quốc tế. Hệ thống pháp luật Việt Nam đã có những chuyển động mạnh mẽ để đáp ứng yêu cầu hội nhập: Luật Thương mại, Luật Đầu tư, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Cạnh tranh… đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần. Điển hình là việc sửa đổi Luật Sở hữu trí tuệ để tương thích với TRIPS và các chương sở hữu trí tuệ trong CPTPP. Bên cạnh đó, Bộ Tư pháp cũng là đầu mối thẩm định pháp lý các dự thảo luật, đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ và tương thích với điều ước quốc tế.

Đồng thời, Việt Nam đã đẩy mạnh hợp tác quốc tế về tư pháp. “Cho đến nay, chúng ta đã ký hàng loạt hiệp định tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, hình sự, dẫn độ, chuyển giao người bị kết án. Đây là cơ sở pháp lý vững chắc giúp giải quyết hiệu quả các vụ việc xuyên quốc gia, đặc biệt là trong phòng, chống tội phạm và giải quyết tranh chấp có yếu tố nước ngoài,” bà Tú Anh dẫn chứng.

Hội nhập cũng là áp lực thúc đẩy cải cách tư pháp toàn diện. Từ việc hoàn thiện các thiết chế xét xử, nâng cao năng lực thực thi pháp luật đến xây dựng một nền tư pháp minh bạch, công bằng, hiệu quả – tất cả đều nhằm đáp ứng yêu cầu mới của thời đại.

“Chúng ta không thể hội nhập thành công nếu hệ thống tư pháp không tạo dựng được niềm tin cho doanh nghiệp, người dân và các đối tác quốc tế”, ĐBQH Trịnh Thị Tú Anh nói.

img

Một khía cạnh quan trọng khác, hội nhập quốc tế trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp không chỉ dừng lại ở việc thực hiện cam kết, mà đã thực sự trở thành động lực thúc đẩy đổi mới thể chế. Trong đó, đáng kể nhất là sự thay đổi tư duy lập pháp – từ tư duy hành chính sang tư duy thị trường, từ kiểm soát sang kiến tạo. Việc tham gia các hiệp định như WTO, CPTPP, EVFTA đã tạo sức ép tích cực, buộc Việt Nam ban hành hàng loạt đạo luật quan trọng như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Đất đai, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng... Những bộ luật này không chỉ đảm bảo hội nhập mà còn góp phần hình thành khung pháp lý cho nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy phát triển các thành phần kinh tế.

Không dừng lại ở khía cạnh kinh tế, hội nhập pháp lý cũng tạo động lực quan trọng cho việc hoàn thiện thể chế về quyền con người. Việt Nam đã tham gia nhiều công ước quốc tế về nhân quyền, qua đó thúc đẩy sửa đổi Hiến pháp 2013 và các đạo luật như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Luật Tiếp cận thông tin, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo... Đây là bước tiến lớn, không chỉ nâng cao vị thế quốc gia mà còn tạo điều kiện thực chất hơn để bảo vệ các quyền tự do cơ bản của người dân.

Nhấn mạnh những bước tiến quan trọng trong hội nhập quốc tế về pháp luật, ĐBQH Phạm Văn Hòa – Ủy viên Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội cho rằng một trong những nguyên nhân cơ bản đến từ sự trưởng thành vượt bậc của đội ngũ cán bộ tư pháp, pháp chế đủ năng lực, bản lĩnh và khả năng hội nhập quốc tế.

img

Theo đó, trong tiến trình hội nhập sâu rộng hiện nay, ngành Tư pháp từ Bộ Tư pháp, các cơ quan tư pháp địa phương đến các đơn vị pháp chế trong các bộ, ngành đều giữ vai trò nòng cốt trong việc xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực thi hệ thống pháp luật. Đây là lực lượng trực tiếp tham gia vào quá trình soạn thảo chính sách, pháp luật; đồng thời tham mưu cho lãnh đạo các cấp trong việc hoạch định chủ trương và chỉ đạo điều hành các vấn đề pháp lý liên quan đến hội nhập.

"Điều đáng ghi nhận là đội ngũ này không chỉ thực hiện tốt nhiệm vụ nội luật hóa các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, mà còn chủ động góp phần hoàn thiện pháp luật phù hợp với thực tiễn trong nước. Trong quá trình đó, cán bộ tư pháp cần nắm vững thông lệ và chuẩn mực pháp lý quốc tế, để vừa đảm bảo tính độc lập, tự chủ của pháp luật Việt Nam, vừa bảo đảm tính tương thích trong các lĩnh vực có liên hệ quốc tế sâu rộng như đầu tư, thương mại, sở hữu trí tuệ, giải quyết tranh chấp...”, ĐBQH này đánh giá.

Có thể nói, hội nhập quốc tế về pháp luật, suốt 40 năm qua, đã âm thầm trở thành một phương diện chiến lược trong hành trình mở cửa và đổi mới của Việt Nam. Không chỉ là công cụ thực thi cam kết, hội nhập pháp lý đã góp phần kiến tạo môi trường pháp lý minh bạch, ổn định, nâng cao năng lực thể chế và bảo vệ lợi ích quốc gia trong một “luật chơi” toàn cầu ngày càng phức tạp. Đây không chỉ là quá trình tuân thủ, mà là hành trình nâng tầm từ “chơi đúng luật” đến “tham gia thiết kế luật chơi”. Trong hành trình ấy, đội ngũ những người làm pháp luật đã và đang đảm đương một sứ mệnh thầm lặng nhưng mang ý nghĩa kiến tạo mạnh mẽ cho một Việt Nam hội nhập chủ động, vững vàng và bản lĩnh.

img
img

Thực hiện: HOÀNG BÍCH - MẠNH QUỐC - HỮU THẮNG

Thiết kế: Hoàng Yến

NGUOIDUATIN.VN |