Thái tử Mohammed bin Salman từng sang Mỹ gặp Tổng thống Donald Trump vào năm 2017.
Trong giai đoạn sau Thế chiến 2, Mỹ bắt đầu tăng cường nhập khẩu dầu giá rẻ từ Trung Đông. Giá dầu ở mức thấp là cơ sở cho "mùa hè dài" của sự thịnh vượng và phát triển của xã hội Mỹ.
Năm 1970, năng lực sản xuất dầu ở Mỹ đạt đến mức giới hạn và Washington tăng 52% lượng nhập khẩu dầu trong giai đoạn từ năm 1969 - 1972. Đến năm 1972, 83% dầu nhập khẩu của Mỹ đến từ Trung Đông, đặc biệt là Ả Rập Saudi.
Đây cũng là giai đoạn mà các quốc gia Ả Rập ở Trung Đông có mối quan hệ căng thẳng với Israel - đồng minh chủ chốt của Mỹ.
Cuộc gặp định hình quan hệ giữa Mỹ và Ả Rập Saudi
Ngày 14/2/1945, trong giai đoạn cuối của Thế chiến 2, Tổng thống Mỹ khi đó là Franklin D. Roosevelt đã có cuộc gặp lịch sử với quốc vương Ả Rập Saudi Abdulaziz - người sáng lập vương quốc.
Quốc vương Ả Rập Saudi Abdulaziz (giữa) gặp Tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt ngày 14/2/1945.
Cuộc gặp diễn ra một cách bí mật trên tàu khu trục Mỹ ở kênh đào Suez, tạo nền móng cho mối quan hệ Mỹ - Ả Rập Saudi đến ngày nay và đảm bảo rằng Mỹ là quốc gia xếp hàng đầu trong việc tiếp cận nguồn dầu mỏ khổng lồ của quốc gia Trung Đông, theo History.
Lý do cuộc gặp diễn ra trong bí mật là vì Thế chiến 2 khi đó vẫn đang diễn ra và Mỹ từng cam kết với Thủ tướng Anh Winston Churchill rằng sẽ không cạnh tranh lợi ích với đồng minh ở Trung Đông, Scott Montgomery, chuyên gia đến từ Trường Nghiên cứu Quốc tế Jackson tại Đại học Washington ở Mỹ, nói.
Vấn đề trọng tâm được ông Roosevelt nhắc đến trong cuộc gặp với quốc vương Ả Rập Saudi là dầu mỏ.
"Đến cuối những năm 1930, công ty dầu mỏ Mỹ đã phát hiện trữ lượng dầu khổng lồ ở phía đông Ả Rập Saudi", ông Montgomery nói. "Các đánh giá khi đó cho thấy trọng tâm sản xuất dầu trên thế giới sẽ tập trung ở Vịnh Ba Tư, trong đó Ả Rập Saudi đóng vai trò quan trọng".
Đối với Mỹ, nguy cơ thiếu dầu phục vụ chiến tranh là một trong những mối quan ngại lớn và chính quyền của Tổng thống Roosevelt hiểu rõ điều này.
“Bộ trưởng Nội vụ Harold Ickes nhận thấy dầu mỏ của Ả Rập Saudi và an ninh, sự ổn định xã hội của Mỹ có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, thậm chí còn đề xuất chính phủ liên bang thiết lập quyền kiểm soát trực tiếp đối với tất cả các nguồn dầu mỏ thuộc sở hữu của các công ty Mỹ ở Ả Rập Saudi", ông Montgomery nói.
Bên cạnh đó, có dấu hiệu cho thấy người Anh muốn tạo chỗ đứng ở Ả Rập Saudi để khai thác dầu và mục tiêu của ông Roosevelt là đảm bảo rằng Mỹ vẫn chi phối nguồn dầu mỏ khổng lồ từ quốc gia Trung Đông.
Cuộc gặp diễn ra 8 tuần trước khi ông Roosevelt qua đời, đã kết thúc một cách thành công tốt đẹp. Tổng thống Mỹ khi đó tặng quốc vương Ả Rập Saudi một chiếc xe lăn cùng loại mình sử dụng và một máy bay chở khách DC-3.
Đáp lại, quốc vương Abdulaziz tặng ông Roosevelt một con dao găm nạm kim cương, nước hoa, đồ trang sức bằng ngọc trai, thắt lưng dệt bằng chỉ vàng và đồ thêu, ông Montgomery nói.
Sau này, mỗi khi có bạn đến chơi, quốc vương Abdulaziz đều cho xem món quà của Tổng thống Mỹ. "Chiếc xe lăn này là vật sở hữu quý giá nhất của tôi. Đó là món quà của người bạn tốt và vĩ đại của tôi, Tổng thống Roosevelt".
Ả Rập Saudi cấm vận dầu mỏ Mỹ
Năm 1973, Ai Cập và Syria được các quốc gia Ả Rập hậu thuẫn phát động cuộc chiến Yom Kippur nhằm giành lại các vùng lãnh thổ bị mất vào tay Israel.
Dầu mỏ của Ả Rập Saudi có liên quan mật thiết đến an ninh và sự ổn định xã hội của Mỹ. Nhưng dưới thời chính quyền Tổng thống Mỹ Richard Nixon (1969 - 1974), Washington dường như đã quên mất điều này.
Ngày 6/10/1973, Ai Cập và Syria được các đồng minh Ả Rập, bao gồm Ả Rập Saudi hậu thuẫn, phát động cuộc chiến tranh Yom Kippur nhằm đòi lại các vùng lãnh thổ bị mất vào tay Israel trong cuộc chiến 6 ngày cách đó 7 năm.
Bị tấn công bất ngờ, quân đội Israel hứng chịu nhiều tổn thất nặng nề. Ngày 18/10, chính phủ Israel gửi thư đề nghị Mỹ viện trợ quân sự 850 triệu USD để bù đắp.
Chính quyền Tổng thống Mỹ Richard Nixon không chỉ đáp ứng đề nghị từ đồng minh, mà còn phê duyệt khoản viện trợ quân sự lên tới 2,2 tỷ USD.
Ông Nixon tiết lộ trong hồi ký rằng, các máy bay vận tải quân sự Mỹ đã thực hiện nhiều chuyến bay mang vũ khí đến Israel hơn cả chiến dịch không vận Berlin năm 1948 - 1949.
Trong một cuộc phỏng vấn với nhà sử học người Anh Robert Lacey vào năm 1981, cựu Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger thừa nhận sai lầm. "Chúng tôi đã vận chuyển vũ khí cho Israel vượt quá mức cần thiết. Đây không phải là quyết định tốt nhất mà chúng tôi đã đưa ra khi đó", ông Kissinger nói.
Động thái khoa trương quá mức của Mỹ đã khiến quốc vương Ả Rập Saudi khi đó là Faisal tức giận. Chiều ngày 19/10/1973, quốc vương Faisal đang làm việc ở cung điện và nhận được tin Mỹ sẽ gửi số vũ khí trị giá 2,2 tỷ USD cho Israel thông qua chiến dịch không vận quy mô lớn, theo History.
Sau nhiều giờ thảo luận với hai cố vấn thận cận, Quốc vương Faisal gọi cho Bộ trưởng Dầu mỏ Ahmed Zaki Yamani vào lúc 8 giờ tối, nói rằng cần tới cung điện ngay lập tức.
Sau cuộc trao đổi ngắn, Bộ trưởng Yamani nói với nhà vua: "Bản tin thời sự sẽ được phát trên truyền hình lúc 9 giờ. Nếu ngài đưa ra quyết định bây giờ, chúng tôi có thể thông bao ngay lập tức".
Nhà vua yêu cầu ông Yamani viết mệnh lệnh ra giấy, rằng mình phê duyệt lệnh cấm vận dầu mỏ toàn diện đối với Mỹ và các đồng minh của Washington như Nhật Bản, Canada, Anh và một số nước khác. Các quốc gia Ả Rập xuất khẩu dầu sau đó cũng áp đặt lệnh cấm vận tương tự, ngoại trừ Iraq và Libya.
Hệ quả cơn giận của Quốc vương Ả Rập Saudi
Lệnh cấm vận cũng bao gồm cắt giảm sản lượng khai thác. Đến tháng 12/1973, các quốc gia Ả Rập xuất khẩu dầu đã cắt giảm 25% sản lượng khai thác so với mức của tháng 9.
Điều này đã góp phần gây ra suy thoái toàn cầu và gia tăng căng thẳng giữa Mỹ và một số đồng minh châu Âu. Một số đồng minh đổ lỗi cho Mỹ vì đã "chọc giận" Ả Rập Saudi.
Ả Rập Saudi yêu cầu Israel rút quân hoàn toàn khỏi tất cả các vùng lãnh thổ bên ngoài phạm vi nêu trong Hiệp định đình chiến năm 1949 để dỡ bỏ cấm vận.
Quốc vương Ả Rập Saudi Faisal (phải) là người đã ký lệnh cấm vận dầu mỏ Mỹ.
Trong một nỗ lực hạ nhiệt căng thẳng, Ngoại trưởng Mỹ khi đó là Henry Kissinger đã bay tới Riyadh để gặp quốc vương Faisal. Quốc vương nói: "Mỹ từng là biểu tượng chống lại sự xâm lược. Các ngài đã làm điều đó trong Thế chiến 2 và cuộc chiến Suez năm 1956. Nếu các ngài cũng làm điều tương tự trong cuộc chiến năm 1967 thì sự suy thoái toàn cầu đã không xảy ra. Trước khi nhà nước Israel hình thành, người Do Thái và người Ả Rập vẫn chung sống hòa bình".
Năm 1967, trong cuộc chiến 6 ngày, Israel đã đánh phủ đầu các quốc gia Ả Rập và giành quyền kiểm soát Dải Gazaa, bán đảo Sinai, khu Bờ Tây và Cao nguyên Golan.
Vào ngày 22/2/1974, quốc vương Faisal chủ trì hội nghị thượng đỉnh lần thứ hai của các quốc gia Hồi giáo ở Islamabad, Pakistan. Quốc vương được thế giới Hồi giáo ca ngợi là "anh hùng đã hạ bệ phương Tây, khiến các nước phương Tây điêu đứng vì suy thoái".
Ngày 19/3/1974, Quốc vương Faisal đồng ý chấm dứt lệnh cấm vận dầu mỏ, sau khi các cố vấn nói rằng Mỹ "đã nhận được bài học thích đáng". Ngoại trưởng Kissinger cũng gửi tới Ả Rập Saudi lời cam kết rằng Mỹ sẽ bán cho đồng minh các vũ khí mà trước đây chính quyền từ chối với lý do có thể được sử dụng để chống lại Israel.
Ả Rập Saudi đã đầu tư hàng tỷ đô la vào các ngân hàng phương Tây, và đợt lạm phát lớn do lệnh cấm vận dầu mỏ gây ra là mối đe dọa đối với khối tài sản này. Do đó, Quốc vương Faisal cảm thấy không cần thiết phải tiếp tục duy trì cấm vận.
Do phản ứng dữ đội từ Ả Rập Saudi, bao gồm lệnh cấm vận dầu mỏ, chính quyền Tổng thống Mỹ Richard Nixon đã nỗ lực để các bên đồng ý ký thỏa thuận ngừng bắn.
Cuộc chiến Yom Kippur chấm dứt sau 2 tuần 5 ngày, trong đó liên quan Ai Cập và Syria giành lại một số vùng lãnh thổ, bao gồm phía bờ đông kênh đài Suez. Quân đội Israel không còn kiểm soát hai thành phố chiến lược gồm thành phố cảng Suez và Ismailia do thất bại trước quân Ai Cập. Israel vẫn duy trì quyền kiểm soát 500km2 khu vực Cao nguyên Golan, cách không xa thủ đô Damascus, Syria, và 1.600km2 khu vực phía bờ tây nam kênh đào Suez.
Cuộc chiến đã tạo ra cú sốc đối với người dân Israel. Sau thắng lợi chớp nhoáng trong cuộc chiến 6 ngày, Israel đã phải hứng chịu một số thất bại trước liên quân Ả Rập dù nước này duy trì vẫn kiểm soát nhiều khu vực từng là lãnh thổ của các nước Ả Rập. Nhiều quan chức chính phủ và quân đội Israel sau đó đã phải từ chức.
Trong giai đoạn Ả Rập Saudi áp đặt cấm vận dầu mỏ Mỹ và các đồng minh, giá dầu đã tăng gần 4 lần trên toàn cầu, tạo ra sự xáo trộn lớn trong đời sống xã hội. Từ tháng 5/1973 đến tháng 6/1974, tại Mỹ, giá bán lẻ trung bình của một gallon xăng đã tăng 43%.
Trong mùa Giáng sinh năm đó, chính quyền các bang yêu cầu người dân không treo đèn. Bang Oregon cấm hoàn toàn lễ Giáng sinh và chương trình chiếu sáng thương mại.
Các nước phương Tây như Anh, Đức, Italy, Thụy Sĩ và Na Uy ban hành lệnh cấm bay, hạn chế người dân lái xe và sử dụng thuyền vào Chủ nhật. Thụy Điển cắt giảm xăng và dầu cho việc sưởi ấm còn Hà Lan áp dụng án tù cho những người sử dụng điện lãng phí.
Cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973 - 1974 cũng là nguyên nhân khiến nước Mỹ thành lập kho Dự trữ Dầu mỏ Chiến lược. Chính quyền Tổng thống Mỹ Gerald R. Ford sau này áp đặt các tiêu chuẩn tiết kiệm nhiên liệu và thúc đẩy việc thành lập Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA).
______________________
Dưới thời chính quyền Tổng thống Mỹ Joe Biden, quan hệ giữa Mỹ và Ả Rập Saudi trải qua nhiều "sóng gió". Lý do nào khiến Mỹ vẫn chưa vội áp đặt lệnh trừng phạt đồng minh Trung Đông? Mời độc giả đón đọc bài kỳ 3 xuất bản sáng sớm 24/10 trên mục Thế giới.
Đăng Nguyễn - Tổng hợp