Thủ khoa thi đánh giá năng lực Đại học Quốc gia Tp.HCM đợt 1
Trao đổi với VTC News trưa 15/4, TS Nguyễn Quốc Chính, Giám đốc Trung tâm Khảo thí và Đánh giá chất lượng đào tạo, Đại học Quốc gia Tp.HCM cho biết, trong hơn 93.820 bài thi, điểm trung bình của thí sinh là 643,4/1.200. Ở mức trên 1.000 điểm chỉ có 80 em đạt được.
Thí sinh điểm cao nhất đạt 1.076 điểm, thấp hơn 57 điểm so với thủ khoa của kỳ thi này năm ngoái.
Đánh giá về phổ điểm, ông Chính nhận định dải điểm trải rộng, thể hiện khả năng phân loại thí sinh cao, thuận lợi cho công tác xét tuyển.
Kỳ thi đánh giá năng lực đợt 1 do Đại học Quốc gia Tp.HCM tổ chức cách đây một tuần với gần 94.000 thí sinh, là mức cao kỷ lục kể từ khi kỳ thi lần đầu được tổ chức năm 2018.
Đợt 1 được tổ chức tại 24 địa phương. Thừa Thiên - Huế, Bình Phước, Tây Ninh là ba điểm thi mới, bên cạnh 21 địa phương như năm trước: Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận, Đắk Lắk, Lâm Đồng, Tp.HCM, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Tiền Giang, Bến Tre, Đồng Tháp, Vĩnh Long, An Giang, Cần Thơ, Kiên Giang, Bạc Liêu.
Kết quả kỳ thi hiện được 105 trường đại học, cao đẳng sử dụng để tuyển sinh.
Từ ngày 16/4 đến 7/5, Đại học Quốc gia Tp.HCM sẽ mở cổng đăng ký thi đánh giá năng lực đợt 2, đồng thời thí sinh bắt đầu đăng ký nguyện vọng xét tuyển bằng điểm thi đánh giá năng lực 2024.
Kỳ thi đánh giá năng lực đợt 2 năm 2024 sẽ được Đại học Quốc gia Tp.HCM phối hợp với các đơn vị tổ chức vào sáng 2/6 tại 14 tỉnh, thành phố: Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Bình Định, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Đắk Lắk, Lâm Đồng, Tp.HCM, Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai, Bình Dương, Tiền Giang, An Giang và dự kiến tại Cà Mau. Trường công bố kết quả đợt này vào ngày 10/6.
TS Nguyễn Quốc Chính cho biết thêm: "Trong năm nay, Đại học Quốc gia Tp.HCM dành tối thiểu 45% tổng chỉ tiêu xét tuyển bằng phương thức thi đánh giá năng lực. Kết quả kỳ thi được hơn 100 trường đại học, cao đẳng sử dụng để tuyển sinh. Sự tin tưởng ngày càng tăng của thí sinh và của các trường đại học, cao đẳng đã khẳng định chất lượng của kỳ thi. Tương tự mọi năm, thí sinh có thể tham gia thi cả 2 đợt. Kết quả của đợt thi nào cao hơn sẽ được sử dụng để xét tuyển".
Người phụ nữ có khối u tử cung "khủng" như thai 6 tháng
Trao đổi với báo Sức khỏe và Đời sống, ThS.BSNT Nguyễn Xuân Chung, Trưởng khoa Ngoại phụ, Bệnh viện Sản Nhi Nghệ An cho biết vừa phẫu thuật cho một bệnh nhân có khối u tử cung có kích thước lớn, nhìn như mang thai 5-6 tháng. Bệnh nhân này đã tự ý uống thuốc nam điều trị khối u nhiều năm.
Cụ thể, bệnh nhân H. (42 tuổi ở huyện Đô Lương, Nghệ An) nhập viện trong tình trạng bụng to, đau bụng nhiều.
Qua khai thác bệnh sử được biết, bệnh nhân H. lấy chồng từ năm 22 tuổi chưa có con lần nào, kinh nguyệt đều, hành kinh đau bụng nhiều. Bệnh nhân đã đi khám nhiều nơi, phát hiện có khối u tử cung nhưng không điều trị. Bệnh nhân đã tự ý mua thuốc nam về uống nhiều năm nay nhưng không hiệu quả. Kích thước của khối ngày một tăng lên, có thể nhìn rõ trên bụng, kèm theo đau bụng hạ vị cả trong và sau khi hành kinh nên vào Bệnh viện Sản Nhi khám, điều trị.
Tại đây, bệnh nhân được các bác sĩ chỉ định khám lâm sàng, siêu âm ổ bụng, chụp cắt lớp vi tính, phát hiện tử cung kích thước lớn tương đương tử cung có thai 5-6 tháng; bề mặt tử cung sờ thấy có khối u lớn khoảng 25 cm, ấn đau. Thân tử cung có khối echo hỗn hợp âm kích thước 160x105x84 mm, bên trong có nhiều nang echo kém, bờ không đều, tăng sinh mạch máu mức độ 2.
Các bác sĩ khoa Phụ Ngoại đã tiến hành hội chẩn và đưa ra chỉ định phẫu thuật cắt tử cung bán phần.
Bác sĩ Nguyễn Xuân Chung cho biết: "Quá trình phẫu thuật ghi nhận thấy ổ bụng lên đến quá rốn có 1 khối kích thước khoảng 25 cm, nằm xu hướng lệch sau bên phải đẩy lệch trục tử cung về trước sang trái. Việc đưa khối u ra khỏi ổ bụng tương đối khó khăn bởi vì kích thước khối u quá lớn và có dấu hiệu dính nhưng kíp mổ đã thực hiện thành công, rút ngắn thời gian mổ và hạn chế tối đa lượng máu mất trong mổ".
Sau mổ, sức khỏe bệnh nhân ổn định. Kết quả giải phẫu bệnh là u xơ tử cung lành tính, lạc nội mạc trong có tử cung. Kết quả này phù hợp với chẩn đoán lâm sàng.
Bác sĩ Nguyễn Xuân Chung khuyến cáo, khi gặp các triệu chứng bất thường như hành kinh đau bụng hạ vị cả trong và sau khi hành kinh, bụng to bất thường, đây có thể là dấu hiệu của nhiều vấn đề sức khỏe khác nhau có thể liên quan đến tử cung, buồng trứng, hoặc các vấn đề nội tiết khác. Cần đến ngay cơ sở y tế để được thăm khám, chẩn đoán chính xác và có chỉ định điều trị phù hợp.
Đặc biệt không tự ý sử dụng thuốc nam hoặc mua các loại thuốc khác để điều trị bệnh mà không có chỉ định của các chuyên gia y tế.
Kỳ lạ cụ bà 74 tuổi có 2 bàng quang
Thông tin từ Bệnh viện E, các bác sĩ khoa Phẫu thuật tiết niệu và Nam học – Bệnh viện E vừa tiếp nhận và phẫu thuật thành công cho người phụ nữ có 2 bàng quang (bàng quang “thật” và bàng quang “giả” hay còn gọi là túi thừa bàng quang).
Đó là trường hợp người bệnh nữ (74 tuổi, Hà Nội) nhập viện vào khoa Bệnh nhiệt đới với biểu hiện của viêm đường hô hấp trên cấp: sốt cao, ho đờm, đau họng…
Các bác sĩ chỉ định làm các xét nghiệm, siêu âm, chụp CT đã xác định ngoài bệnh viêm phế quản phổi, người bệnh còn mắc bệnh lý liên quan đến đường tiết niệu người bệnh có đến 2 bàng quang.
Ngay lập tức các bác sĩ khoa Bệnh nhiệt đới đã hội chẩn với các bác sĩ khoa Phẫu thuật Thận tiết niệu và Nam học để đưa ra phương án điều trị tiếp theo cho người bệnh.
Khai thác tiền sử bệnh án, người bệnh đã có triệu chứng bất thường ở hệ tiết niệu vài năm nay như tình trạng tiểu buốt, tiểu đêm nhiều (3-4 lần), tiểu nhiều lần vào ban ngày.
Người bệnh nghĩ rằng mình chỉ mắc bệnh tiểu đêm thường gặp ở người già nên không đi khám… Sau khi nhận được kết quả chụp CT ổ bụng, người bệnh đã rất sốc khi phát hiện mình có 2 bàng quang (bàng quang “thật” và bàng quang “giả” hay còn gọi là túi thừa bàng quang).
Các bác sĩ thận tiết niệu gọi trường hợp có 2 bàng quang này là “tôn hành giả - giả hành tôn”: bàng quang “thật” và bàng quang giả - thực chất là túi thừa bàng quang.
ThS.BS Nguyễn Thế Thịnh – Khoa Phẫu thuật tiết niệu và Nam học, Bệnh viện E giải thích, túi thừa bàng quang là tình trạng xuất hiện túi phồng bất thường hình thành trên thành bàng quang. Túi này được hình thành do sự thoát vị của lớp niêm mạc bàng quang qua lớp cơ bàng quang. Túi thừa bàng quang có thể nằm ở bất kỳ vị trí nào trên bàng quang, nhưng phổ biến nhất là ở mặt sau.
Túi thừa bàng quang được hình thành do bẩm sinh hoặc do mắc phải. Nguyên nhân bẩm sinh thường do khiếm khuyết trong quá trình hình thành bàng quang của thai nhi. Nguyên nhân mắc phải thường gặp ở người lớn, do tắc nghẽn đường tiểu (sỏi bàng quang, phì đại tuyến tiền liệt, xơ cứng cổ bàng quang, hẹp niệu đạo…), bệnh lý bàng quang thần kinh hay chấn thương bàng quang.
Ở giai đoạn đầu, túi thừa bàng quang thường không có triệu chứng nào đặc hiệu, tuy nhiên khi thể tích của nó tăng dần, bắt đầu xuất hiện các triệu chứng của bệnh, thường là do các biến chứng tại chỗ do túi thừa gây ra.
Chia sẻ về mức độ nguy hiểm của túi thừa bàng quang, ThS.BS Nguyễn Thế Thịnh cho biết, các biểu hiện của túi thừa bàng quang rất đa dạng, mức độ nghiêm trọng của bệnh thường không liên quan đến kích thước túi thừa. Túi thừa bàng quang giống như quả bom có thể vỡ ra bất cứ lúc nào và gây nên nhiều biến chứng nguy hiểm.
Do đó, với trường hợp này, các bác sĩ đã lựa chọn phương pháp phẫu thuật nội soi cắt túi thừa bàng quang và trả lại bàng quang khỏe mạnh cho người bệnh.
Phần lớn người bệnh mắc túi thừa bàng quang được phát hiện ngẫu nhiên hay qua khám các triệu chứng không đặc hiệu của đường tiết niệu như bí tiểu, tiểu máu, hoặc nhiễm khuẩn tiết niệu.
Để phòng các biến chứng do túi thừa bàng quang gây ra, cần chú ý thăm khám theo dõi sức khỏe định kỳ. Bên cạnh đó, để đánh giá chức năng của thận, ngoài siêu âm, có thể thực hiện xét nghiệm máu, nước tiểu, nhằm có hướng xử trí kịp thời.
Đặc biệt, các bác sĩ lưu ý thêm về biến chứng nguy hiểm tại hệ thống tiết niệu là bởi không có lớp cơ nên chức năng tống xuất nước tiểu đọng trong túi thừa bàng quang kém. Vì vậy, mỗi lần đi vệ sinh, nước tiểu trong túi thừa không được tống hết nên có một lượng nước tiểu nhất định còn tồn đọng.
Quá trình này kéo dài khiến túi thừa càng ngày càng căng lên, gây chèn ép cổ bàng quang và đè niệu đạo, dẫn đến các biến chứng như nhiễm khuẩn đường tiểu tái đi tái lại, sỏi túi thừa, bí tiểu cấp và mạn tính, nguy hiểm nhất là ung thư bàng quang hay những biến đổi tiền ác tính.
Ứ nước ở niệu quản và thận là những biến chứng thường gặp, gây suy giảm chức năng đường tiết niệu do hậu quả tắc nghẽn hay trào ngược. Khoảng 3-5% các trường hợp, có nguy cơ mắc biến chứng ung thư biểu mô tuyến của niêm mạc túi thừa bàng quang.
Việc chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời túi thừa bàng quang rất quan trọng, nhằm giảm những tác động do bệnh gây ra, đồng thời ngăn ngừa nguy cơ biến chứng nguy hiểm của bệnh. Khi xuất hiện các triệu chứng bệnh, người bệnh cần đến ngay những cơ sở y tế để được khám và điều trị bệnh kịp thời, tránh những biến chứng gây nguy hiểm đến tính mạng của người bệnh.
Trúc Chi (t/h)