Cuộc đời các danh tướng thành danh trên trận mạc đều gắn liền với huyền thoại về các loại binh khí mà họ sử dụng trên chiến trường. Cuộc đời về vị anh hùng dân tộc Quang Trung – Nguyễn Huệ cũng vậy. Trong suốt sự nghiệp lừng lẫy chiến công của mình, vị vua triều Tây Sơn này luôn gắn liền với thanh Ô long đao đầy huyền thoại…
Giai thoại về “tướng nhà trời”
Nguyễn Huệ sinh năm Quý Dậu (1753?), nhỏ hơn Nguyễn Nhạc 10 tuổi. Nhờ gia đình khá giả và có chí lớn nên ba anh em Nguyễn Nhạc – Nguyễn Huệ - Nguyễn Lữ sau khi thọ giáo một thầy đồ ở xã Bàng Châu (huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định) thì đến theo học thầy Trương Văn Hiến, một thầy đồ giỏi cả văn lẫn võ. Nhờ thân vóc mạnh mẽ, nên Nguyễn Huệ chuyên về môn sử dụng đao ngoài những môn võ khác. Môn đao phát huy được sức mạnh trời cho của Nguyễn Huệ.
Ngoài ra, Nguyễn Huệ còn chú trọng nghiên cứu binh thư, nhất là đọc rất kỹ 2 bộ binh pháp của Tôn Tử và Trần Hưng Đạo. Thời gian theo thầy học tập của Nguyễn Huệ lâu hơn cả. Sau khi cha mất, Nguyễn Nhạc phải trở về xã Kiên Mỹ (huyện Tuy Viễn) nối nghiệp cha, Nguyễn Lữ thì xuất gia tu hành. Năm Tân Mão (1771), Nguyễn Nhạc được tôn làm Tây Sơn vương. Đất Tây Sơn (huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) trở thành một tiểu quốc.
Hoàng đế Quang Trung – Nguyễn Huệ.
Nguyễn Huệ được giao trọng trách tổ chức và huấn luyện quân sự cho nghĩa binh. Phụ tá có các ông Trần Quang Diệu, Võ Đình Tú, Võ Văn Dũng. Hằng ngày lo luyện tập cho binh sĩ các môn: côn, quyền, đao, kiếm, bắn cung, cỡi ngựa, ghép thành đội ngũ. Ngoài ra, còn kết hợp với sản xuất làm ruộng, phá rừng, trồng hoa màu... Trong các môn võ đó thì Nguyễn Huệ tinh thông sử dụng đại đao hơn cả.
Sách Võ nhân Bình Định của Quách Tấn - Quách Giao ghi lại thời Tây Sơn có “Tam đại thần đao” đó là: Ô