Cuối tháng 10 vừa qua, trong chuyến thăm chính thức Vương quốc Anh của Tổng Bí thư Tô Lâm, hai nước đã nâng cấp quan hệ song phương lên Đối tác chiến lược toàn diện, đánh dấu một đỉnh cao mới của đối ngoại Việt Nam. Chỉ trong vòng 10 tháng của năm 2025, Việt Nam đã liên tiếp nâng cấp quan hệ lên Đối tác chiến lược toàn diện với 5 quốc gia, trong đó có những đối tác hàng đầu thế giới
Với 14 Đối tác chiến lược toàn diện trải rộng khắp toàn cầu (trong tổng cộng 40 nước từ Đối tác toàn diện trở lên), mạng lưới đối ngoại của Việt Nam đã đạt tới tầm bao phủ và chiều sâu chưa từng có trong lịch sử.
Đây không chỉ là con số ấn tượng mà còn là minh chứng cho sức mạnh mềm và vị thế ngày càng tăng của Việt Nam trên nền chính trị quốc tế hiện đại.
Từ sau Đổi mới, Việt Nam đã nhất quán thực hiện đường lối độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại. Điều này càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực đang biến động sâu sắc, tiềm ẩn nhiều nhân tố bất ổn, khiến hầu hết các nước, lớn cũng như nhỏ, đều tìm cách tăng tự chủ chiến lược.
Để đưa các mối quan hệ đi vào chiều sâu, thực chất và hiệu quả hơn, Việt Nam chủ trương thiết lập, củng cố và nâng cấp các khuôn khổ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với các nước láng giềng, các đối tác trong khu vực, các nước lớn và các đối tác quan trọng khác trên thế giới. Nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng đánh dấu một bước tiến vượt bậc khi Việt Nam thiết lập và nâng cấp quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện với nhiều quốc gia nhất từ trước tới nay, khẳng định tầm vóc và sức hấp dẫn ngày càng gia tăng của Việt Nam.

Chỉ trong vòng 10 tháng của năm 2025, Việt Nam đã liên tiếp nâng cấp quan hệ lên Đối tác chiến lược toàn diện với 5 quốc gia: New Zealand (2/2025), Indonesia và Singapore (3/2025), Thái Lan (5/2025), Anh (10/2025).
Đến nay, bên cạnh khuôn khổ quan hệ đặc biệt với ba nước Lào, Campuchia và Cuba, Việt Nam đã chính thức thiết lập 25 khuôn khổ Đối Tác chiến lược với các nước: Nga (năm 2001), Ấn Độ (2007), Trung Quốc (2008), Nhật Bản, Hàn Quốc và Tây Ban Nha (2009), Vương quốc Anh (2010), Đức (2011), Thái Lan, Indonesia, Singapore, Pháp và Italy (2013), Malaysia và Philippines (2015), Australia (2018), New Zealand (2020), Hoa Kỳ (2023), Brasil (11/2024), Séc (1/2025), Kazakhstan, Azerbaijan, Belarus (5/2025), Phần Lan và Bulgaria (10/2025).
Trong đó, có quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện với 14 quốc gia: Trung Quốc (2008), Liên bang Nga (7/2012), Ấn Độ (9/2016), Hàn Quốc (12/2022), Mỹ (9/2023), Nhật Bản (11/2023), Australia (3/2024), Pháp (10/2024), Malaysia (11/2024), New Zealand (2/2025), Indonesia và Singapore (3/2025), Thái Lan (5/2025), Anh (10/2025).
Việt Nam cũng có 15 khuôn khổ Đối tác Toàn diện hoặc mang tính toàn diện với: Nam Phi (năm 2004), Chile và Venezuela (2007), Argentina (2010), Ukraine (2011), Đan Mạch (2013), Myanmar và Canada (2017), Hungary (2018), Brunei (2019), Hà Lan (2019), Mông Cổ (9/2024), Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (10/2024), Thụy Sĩ (1/2025), Ai Cập (8/2025).
Bên cạnh đó, Việt Nam còn có khuôn khổ quan hệ Đối tác chiến lược lĩnh vực với 3 quốc gia, gồm Hà Lan (Đối tác chiến lược về ứng phó với biến đổi khí hậu và quản lý nước năm 2010 và Đối tác chiến lược về nông nghiệp bền vững và an ninh lương thực năm 2014), Thụy Điển (Đối tác chiến lược ngành trong lĩnh vực khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo, tháng 6/2025), Đan Mạch (Đối tác chiến lược trong lĩnh vực Biến đổi khí hậu, Năng lượng, Môi trường và Tăng trưởng xanh năm 2011 và Đối tác Chiến lược Xanh năm 2023).
Tổng Bí thư Tô Lâm đã nói dân tộc Việt Nam có truyền thống "giàu vì bạn". Mạng lưới đối tác chiến lược và toàn diện gồm 40 nước phủ khắp toàn bộ các châu lục, đóng vai trò hết sức quan trọng đối với các lợi ích an ninh, phát triển và vị thế của Việt Nam.
Mạng lưới này bao gồm tất cả các nước lớn, toàn bộ 5 nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, toàn bộ các nước G7, 16/20 nước G20, 9/10 nước ASEAN (do Timor Leste mới được kết nạp vào ASEAN, 10/2025), 8/10 nước BRICS.
Việt Nam không chọn bên...
Trao đổi với Người Đưa Tin, Đại sứ Nguyễn Đức Hùng - Cố vấn cao cấp Học viện Ngoại giao, nguyên Trợ lý Bộ trưởng Bộ Ngoại giao cho biết, trong suốt chiều dài lịch sử, triết lý "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" không chỉ là lời hiệu triệu của dân tộc Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, mà còn là nền tảng đạo lý và nguyên tắc ứng xử trong quan hệ quốc tế.
Từ giá trị cốt lõi ấy, Việt Nam hình thành một tư duy đối ngoại độc đáo, vừa kiên định về nguyên tắc, vừa linh hoạt trong hành xử; vừa bảo vệ lợi ích quốc gia, vừa đóng góp tích cực cho hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực và thế giới.
Trên nền tảng đó, Việt Nam "kiên trì đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa". Mục tiêu nhất quán là "làm bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế".
"Việc thiết lập và củng cố các quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với nhiều quốc gia phản ánh rõ tầm nhìn này: không chọn bên, mà chọn lẽ phải, chính nghĩa, hòa bình và hợp tác; không đối đầu, mà thúc đẩy đối thoại và tin cậy lẫn nhau, góp phần vào việc củng cố cục diện đối ngoại thuận lợi cho đất nước, nâng cao vị thế của Đảng", Đại sứ Nguyễn Đức Hùng khẳng định.

Đại sứ Nguyễn Đức Hùng - Cố vấn cao cấp Học viện Ngoại giao, nguyên Trợ lý Bộ trưởng Bộ Ngoại giao.
Theo Đại sứ Nguyễn Đức Hùng, trong mọi hoạt động đối ngoại, Việt Nam luôn đặt ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội làm nền tảng vững chắc bên trong; đồng thời giữ môi trường hòa bình, hợp tác và tôn trọng lẫn nhau bên ngoài.
Những khác biệt, nếu có, Việt Nam luôn nhấn mạnh phải được xử lý bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế. Cốt lõi của tư duy này là "lấy con người làm trung tâm", đặt lợi ích chính đáng của nhân dân, của quốc gia-dân tộc lên trên hết, trước hết.
"Tư duy "bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa" của Việt Nam không chỉ bằng sức mạnh quốc phòng, mà còn bằng ngoại giao, luật pháp quốc tế, văn hóa và truyền thống dân tộc. Việt Nam lựa chọn con đường bảo vệ Tổ quốc bằng hòa bình, bằng hợp tác cùng có lợi, thay vì đối đầu hay cạnh tranh quyền lực. Đây chính là sự lựa chọn chủ động chiến lược, phản ánh bản lĩnh, trí tuệ và tầm nhìn của Việt Nam trong thời đại mới.
Từ triết lý "độc lập, tự do" đến tư duy đối ngoại "đa phương, hợp tác, tin cậy", Việt Nam đang góp phần định hình một môi trường quốc tế hòa bình, công bằng và phát triển bền vững – nơi mỗi quốc gia, dù lớn hay nhỏ, đều có tiếng nói và trách nhiệm chung vì tương lai của nhân loại", Đại sứ Nguyễn Đức Hùng nhấn mạnh.
Phải biến quan hệ thành nguồn lực
Theo Đại sứ Nguyễn Đức Hùng, việc thiết lập được mạng lưới đối tác chiến lược và toàn diện gồm 40 nước phủ khắp toàn cầu, trong đó có khuôn khổ quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với 14 nước, là thành tựu đối ngoại đặc biệt quan trọng, khẳng định vị thế, uy tín và tầm vóc quốc tế ngày càng cao của Việt Nam.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra hiện nay là làm thế nào để tận dụng và khai thác hiệu quả các mối quan hệ này nhằm phục vụ phát triển kinh tế nhanh, bền vững và hội nhập quốc tế sâu rộng hơn.
"Khai thác hiệu quả các quan hệ đối tác chiến lược toàn diện không chỉ là bài toán kinh tế, mà còn là chiến lược phát triển tổng thể, gắn kết giữa đối ngoại, kinh tế, khoa học công nghệ và văn hóa, nhằm hiện thực hóa khát vọng xây dựng đất nước hùng cường, thịnh vượng, chủ động hội nhập và đóng góp tích cực cho hòa bình, hợp tác quốc tế.
Việc tranh thủ các thỏa thuận quốc tế và các khuôn khổ hợp tác mới trong các lĩnh vực trụ cột sẽ giúp Việt Nam bổ sung những nguồn lực quan trọng vô cùng cần thiết cho Việt Nam trong kỷ nguyên phát triển mới của đất nước", Đại sứ Nguyễn Đức Hùng nhấn mạnh.
Để trả lời câu hỏi này, trước hết, cần chuyển hóa các khuôn khổ đối tác chiến lược thành lợi ích thực chất về kinh tế, thương mại, đầu tư, khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo. Việt Nam nên thúc đẩy việc xây dựng các chương trình hành động cụ thể trong từng quan hệ đối tác, xác định rõ các lĩnh vực hợp tác ưu tiên, như: chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, năng lượng tái tạo, nông nghiệp công nghệ cao, công nghiệp bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
Thứ hai, cần phát huy vai trò của các cơ chế song phương và đa phương hiện có, kết hợp linh hoạt giữa ngoại giao nhà nước, ngoại giao kinh tế và ngoại giao nhân dân. Việc kết nối các chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu với các nước đối tác chiến lược là hướng đi thiết thực, giúp Việt Nam vừa nâng cao năng lực cạnh tranh, vừa tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng, mạng lưới sản xuất và thương mại quốc tế.
Thứ ba, cần nâng cao năng lực nội sinh của nền kinh tế để đủ sức tiếp nhận và tận dụng hiệu quả các nguồn lực từ đối tác, đặc biệt là vốn, công nghệ và tri thức quản trị. Phát triển thể chế, cải thiện môi trường đầu tư, tăng cường minh bạch và dự báo chính sách là điều kiện cần thiết để các cam kết hợp tác đi vào chiều sâu.
Thứ tư, trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, Việt Nam cần giữ vững bản lĩnh và độc lập tự chủ, khéo léo cân bằng lợi ích giữa các đối tác, tránh bị cuốn vào vòng xoáy đối đầu cạnh tranh giữa các nước lớn. Đường lối "đa phương hóa, đa dạng hóa" vẫn là nền tảng để Việt Nam duy trì môi trường hòa bình, ổn định và hợp tác phát triển.
Đặc biệt, cần xây dựng nguồn nhân lực đối ngoại chất lượng cao, kết nối chặt chẽ giữa các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp trong triển khai các khuôn khổ đối tác chiến lược. Mỗi cán bộ, mỗi doanh nghiệp cần trở thành "sứ giả" của hội nhập, biết khai thác cơ hội hợp tác và quảng bá lan tỏa hình ảnh Việt Nam năng động, sáng tạo, đáng tin cậy.
