Giá cà phê xuất khẩu giảm sâu
Giá cà phê hôm nay 19/7 trong khoảng 125.500 - 126.100 đồng/kg. Tại huyện Di Linh, Lâm Hà, Bảo Lộc (Lâm Đồng) giá cà phê hôm nay được thu mua với mức 125.500 đồng/kg.
Tại huyện Cư M'gar (Đắk Lắk) giá cà phê hôm nay ở mức 126.100 đồng/kg. Tại huyện Ea H'leo (Đắk Lắk), Buôn Hồ (Đắk Lắk) giá cà phê hôm nay được thu mua cùng mức 126.000 đồng/kg.
Tương tự tại tỉnh Đắk Nông, giá cà phê hôm nay thu mua ở mức 126.100 đồng/kg tại Gia Nghĩa và 126.000 đồng/kg ở Đắk R'lấp.
Tại tỉnh Gia Lai, giá cà phê hôm nay ở mức 126.000 đồng/kg (Chư Prông), ở Pleiku và La Grai cùng giá 125.900 đồng/kg. Còn giá cà phê hôm nay tại tỉnh Kon Tum được thu mua với mức 126.000 đồng/kg.
Kết thúc phiên giao dịch gần nhất, giá cà phê Robusta tại London giao tháng 9/2024 giảm 91 USD/tấn, ở mức 4.479 USD/tấn, giao tháng 11/2024 giảm 83 USD/tấn, ở mức 4.317 USD/tấn.
Giá cà phê Arabica giao tháng 9/2024 giảm 2,25 cent/lb, ở mức 240,9 cent/lb, giao tháng 12/2024 giảm 2,1 cent/lb, ở mức 239,35 cent/lb.
Giá cà phê 2 sàn cùng giảm trong phiên gần cuối tuần. Đồng USD tăng cùng với đồng Real của Brazil giảm đẩy cà phê 2 sàn lao dốc.
Thống kê mới nhất, xuất khẩu nửa đầu tháng 7/2024 của Việt Nam giảm tới 40% về lượng so với cùng kỳ năm ngoái.
Giá hồ tiêu đồng loạt đứng yên
Ở trong nước, thị trường hồ tiêu ngày 19/7 không có biến động mới so với hôm qua. Cụ thể, Đắk Lắk vẫn thu mua hồ tiêu tại giá 148.000 đ/kg;
Giá hồ tiêu Đắk Nông hôm nay tiếp tục ở mức 149.000 đ/kg; Giá tiêu Gia Lai hôm nay neo tại mốc 147.000 đ/kg;
Thương lái Đồng Nai giao dịch hồ tiêu với giá 147.000 đ/kg; Giá hồ tiêu Bà Rịa - Vũng Tàu hôm nay giữ ở ngưỡng 148.000 đ/kg;
Còn thương lái Bình Phước vẫn giao dịch hồ tiêu với giá 148.000 đ/kg. Giá hồ tiêu trong nước hôm nay đồng loạt đi ngang với ngưỡng cao nhất đang là 149.000 đ/kg.
Xuất khẩu tiêu Việt Nam chứng kiến sự tăng trưởng rất ấn tượng về kim ngạch trong nửa đầu năm nay. Theo VSPA, tính đến hết tháng 6/2024, Việt Nam đã xuất khẩu được gần 143 nghìn tấn hồ tiêu các loại, trong đó hạt tiêu đen đạt 126 nghìn tấn, hạt tiêu trắng đạt gần 17 nghìn tấn.
So với cùng kỳ năm ngoái, lượng hạt tiêu xuất khẩu trong 6 tháng qua giảm 6,8%, tuy nhiên nhờ giá xuất khẩu tăng cao nên kim ngạch xuất khẩu lại tăng 30,5% và đạt 634 triệu USD (tiêu đen đạt 540 triệu USD, tiêu trắng đạt 94 triệu USD).
Trong 6 tháng đầu năm, giá bình quân hồ tiêu đen xuất khẩu đạt 4.365 USD/tấn, tiêu trắng đạt 5.983 USD/tấn, lần lượt tăng 922 USD/tấn đối với tiêu đen và 1.028 USD/tấn đối với tiêu trắng so với 6 tháng năm 2023.
Theo đó, giá hạt tiêu đen Lampung tại Indonesia giảm 0,19%; về mức 7.209 USD/tấn. Còn giá hạt tiêu trắng Muntok của quốc gia này cũng giảm nhẹ 0,19%; ở ngưỡng 9.179 USD/tấn.
Giá hồ tiêu đen Kuching ASTA của Malaysia neo tại mức 7.500 USD/tấn; còn hồ tiêu trắng ASTA của quốc gia này có giá 8.800 USD/tấn. Đối với thị trường Brazil, giá hạt tiêu đen ASTA 570 vẫn giữ ở ngưỡng 7.125 USD/tấn.
Tại Việt Nam, giá tiêu đen xuất khẩu loại 500 g/l giao dịch với mức 6.000 USD/tấn; còn loại 550 g/l ở mức 6.600 USD/tấn. Còn giá hồ tiêu trắng xuất khẩu giữ tại mốc 8.800 USD/tấn.
Giá lúa gạo đi ngang, giao dịch chậm
Giá lúa gạo hôm nay tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long điều chỉnh giảm 50 đồng/kg với gạo nguyên liệu và tăng 50 đồng/kg với gạo thành phẩm.
Thị trường gạo tại các địa phương nhìn chung giao dịch chậm, gạo nguyên liệu xô về ít do mưa, ít gạo đẹp, gạo xấu nhiều.
Cụ thể tại Sa Đéc (Đồng Tháp), nguồn về ổn định, giá gạo ít biến động. Tại An Cư (Cái Bè, Tiền Giang) giá ổn định, ít gạo đẹp. Tại Lấp Vò (Đồng Tháp), giao dịch ổn định, chất lượng gạo xấu, gạo xô nguyên liệu về ít.
Theo cập nhật từ Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh An Giang, giá gạo điều chỉnh so với ngày hôm qua. Cụ thể, gạo nguyên liệu IR 504 hè thu ở mức 10.650-10.750 đồng/kg, giảm 50 đồng/kg; gạo thành phẩm IR 504 ở mức 12.500-12.600 đồng/kg, tăng 50 đồng/kg.
Với mặt hàng lúa, ghi nhận tại các địa phương giao dịch lúa mới chậm do mưa, nhiều nơi ngưng mua, nông dân chào giá vững, sức mua yếu. Trên thị trường xuất khẩu, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam ổn định so với ngày hôm qua. Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), gạo 100% tấm ổn định ở mức 460 USD/tấn; gạo tiêu chuẩn 5% tấm hiện ở mức 562 USD/tấn; gạo 25% tấm ở mức 538 USD/tấn.
Giá cao su biến động trái chiều
Tại Sở giao dịch hàng hóa Tokyo (TOCOM), giá cao su giao kỳ hạn tháng 9/2024 tăng 0,54% về ở mức 317,6 yen/kg tại thời điểm khảo sát vào lúc 6h00 (giờ Việt Nam).
Giá cao su kỳ hạn tháng 12/2024 trên sàn Osaka (OSE) giảm 5,6 JPY tương đương 1,73% xuống 317,2 JPY (2,03 USD)/kg.
Trong khi đó, trên Sàn giao dịch hàng hóa tương lai Thượng Hải (SHFE), giá cao su RSS3 giao kỳ hạn tháng 9/2024 giảm 0,03% ở mức 14.5105 nhân dân tệ/tấn.
Giá cao su kỳ hạn tháng 8/2024 trên sàn Singapore tăng 1% lên 163,4 US cent/kg.
Theo số liệu thống kê của Cơ quan Hải quan Trung Quốc, trong 5 tháng đầu năm 2024, Trung Quốc nhập khẩu trên 2,92 triệu tấn cao su (HS 4001, 4002, 4003, 4005), với trị giá 4,71 tỷ USD, giảm 15,3% về lượng và giảm 8,1% về trị giá so với cùng kỳ năm 2023.
Thái Lan, Việt Nam, Malaysia, Nga và Hàn Quốc là 5 thị trường lớn nhất cung cấp cao su cho Trung Quốc. Trừ Thái Lan và Việt Nam, lượng cao su nhập khẩu từ các thị trường còn lại đều tăng so với cùng kỳ năm 2023, thông tin từ Bộ Công Thương Việt Nam.
Trong 5 tháng đầu năm 2024, Việt Nam là thị trường cung cấp cao su lớn thứ 2 cho Trung Quốc với 506,43 nghìn tấn, trị giá 715,46 triệu USD, giảm 10,7% về lượng và giảm 7% về trị giá so với cùng kỳ năm 2023. Thị phần cao su Việt Nam chiếm 17,31% trong tổng lượng cao su nhập khẩu của Trung Quốc trong 5 tháng đầu năm 2024, cao hơn so với mức 16,4% của 5 tháng đầu năm 2023.
Trung Quốc nhập khẩu 846,83 nghìn tấn cao su tự nhiên (HS 4001), trị giá 1,25 tỷ USD, giảm 19,3% về lượng và giảm 9% về trị giá so với cùng kỳ năm 2023, chủ yếu nhập khẩu từ các thị trường: Thái Lan, Bờ Biển Ngà, Malaysia, Việt Nam và Indonesia. Trừ Việt Nam và Malaysia, lượng cao su tự nhiên nhập khẩu của Trung Quốc từ các thị trường còn lại đều giảm so với cùng kỳ năm 2023.
KHÁNH LINH (t/h)