Hiến pháp 2013 đã khẳng định: Nhà nước cộng hoà XHCN Việt Nam là NNPQ XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Vì vậy việc bảo đảm quyền của con người, của công dân là mục tiêu, cũng là động lực để xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam. Là một quốc gia với 54 dân tộc, trong đó có 53 dân tộc thiểu số, cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về quyền của người dân tộc thiểu số để đáp ứng yêu cầu xây dựng NNPQ XHCN trong thời đại mới.
Thời gian qua, Việt Nam đã quan tâm hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo đảm cơ sở pháp lý ngày càng toàn diện hơn cho việc bảo vệ và thúc đẩy, phát triển các quyền con người, quyền công dân nói chung, quyền của đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng. Tính đến tháng 11/2020, chỉ tính các VBQPPL do các cơ quan Trung ương ban hành có 324 VBQPPL liên quan đến vùng dân tộc thiểu số đang có hiệu lực. Bên cạnh đó, pháp luật về quyền của người dân tộc thiểu số ở Việt Nam đã ghi nhận các chính sách dân tộc, công tác dân tộc, khẳng định quyền và nghĩa vụ cơ bản của con người, công dân là người dân tộc thiểu sốvề dân sự, chính trị, văn hoá, kinh tế, xã hội.
Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có VBQPPL có hiệu lực pháp lý ở tầm một đạo luật để điều chỉnh một cách tổng thể, toàn diện về quyền của người dân tộc thiểu số, đáp ứng yêu cầu phát triển thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Các QPPL về bảo đảm quyền của người dân tộc thiểu số vẫn nằm rải rác, tản mạn trong 324 văn bản pháp luật; trong đó 234/324 văn bản (72,22%) là các văn bản dưới luật như Nghị quyết, Nghị định, Thông tư, Quyết định… Thêm vào đó, nhiều quyền của người dân tộc thiểu số chưa được ghi nhận hoặc chưa được quy định cụ thể trong các VBQPPL.

Cần xây dựng một luật chuyên biệt về người dân tộc thiểu số.
Theo Báo cáo kết quả rà soát chính sách, pháp luật liên quan đến vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi của Uỷ ban Dân tộc cho thấy còn 19 nội dung, chính sách chưa được ghi nhận. Việc thiếu vắng các quy định pháp luật cần thiết có thể dẫn đến “lỗ hổng pháp luật”, không đảm bảo quyền của người dân tộc thiểu số và có thể tạo ra sự thiếu công bằng, tư tưởng mặc cảm, so bì giữa các dân tộc. Đi sâu nghiên cứu các nội dung, chính sách pháp luật bảo đảm quyền của người dân tộc thiểu số cho thấy vẫn còn tồn tại những mâu thuẫn, chồng chéo.
Ngoài ra, một số quy định của pháp luật về quyền của người dân tộc thiểu số chưa sát thực tế. Kết quả rà soát chính sách, pháp luật liên quan đến vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi trong Báo cáo số 1533/BC-UBDT được thực hiện bởi Uỷ ban Dân tộc đã chỉ ra cụ thể 19 văn bản pháp luật, bao gồm 06 Nghị định, 06 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 07 Thông tư và Thông tư liên tịch có nội dung không còn phù hợp với thực tiễn. Những quy định thiếu tính khả thi này đương nhiên không thể đi vào cuộc sống, gây lãng phí ngân sách, bức xúc dư luận và quan trọng hơn là không bảo đảm được quyền của người dân tộc thiểu số.
Vì vậy, để hoàn thiện hơn nữa pháp luật về quyền của người dân tộc thiểu số ở Việt Nam, tác giả kiến nghị cần thực hiện một số giải pháp sau:
Trước hết, cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật hiện hành về quyền của đồng bào dân tộc thiểu số theo những hướng sau:
Một là, pháp luật bảo đảm quyền của đồng bào dân tộc thiểu số cần đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững, cụ thể: chính sách, pháp luật phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người dân tộc thiểu số phải đi đôi với bảo đảm công bằng xã hội, người dân được tiếp cận với dịch vụ cơ bản, đồng thời không được phương hại đến môi trường, bảo vệ môi trường sinh thái, tài nguyên thiên nhiên.
Hai là, pháp luật về quyền của người dân tộc thiểu số cần đề cao tinh thần sáng tạo, chủ động vươn lên, tham gia các hoạt động phát triển cộng đồng, khắc phục khó khăn về điều kiện tự nhiên – kinh tể, xã hội của họ nhằm khắc phục tư tưởng trông chờ, ỷ lại, chưa có ý thức tự vươn lên, không muốn thoát nghèo để được nhận tiền trợ cấp… vẫn còn tồn tại trong cộng đồng dân tộc thiểu số ở nước ta.
Ba là, hoàn thiện pháp luật về quyền của đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam tiệm cận hơn với các công ước quốc tế về quyền của người dân tộc thiểu số nói riêng, quyền con người nói chung.
Đặc biệt, cần xây dựng một luật chuyên biệt về người dân tộc thiểu số
Hiện nay trong hệ thống pháp luật Việt Nam chưa có một văn bản quy phạm dưới góc độ là một đạo luật điều chỉnh các vấn đề liên quan đến quyền của người dân tộc thiểu số. Các quy định về quyền và các biện pháp bảo đảm quyền của đối tượng này được quy định riêng lẻ trong các pháp luật chuyên ngành và chủ yếu ở trong các văn bản dưới luật. Tuy nhiên, thực tế, nhiều quy định pháp luật về bảo đảm quyền có khả năng triển khai thực thi trên thực tế thấp khiến quyền và lợi ích hợp pháp của người dân tộc thiểu số bị ảnh hưởng tiêu cực.
Chưa có bình luận. Hãy là người đầu tiên bình luận bài viết này.