Ở khoa Văn (gọi đầy đủ là khoa Ngữ Văn) Đại học Tổng hợp Hà Nội ngày ấy, K30 cũng là một… dị K. Không biết sau khi bể dâu canh cải, trường mất tên và khoa cũng khác xưa thì như thế nào, nhưng gần ba mươi năm trước, K30 giữ kỷ lục về số lượng sinh viên. Một kỷ lục ngược. Bởi cả khóa chỉ vỏn vẹn hăm tư nhân mạng: lớp Văn mười, lớp Ngữ tám và lớp Hán có sáu. Nhiều lần lớp Hán đi học, một thầy mà cũng chỉ một trò lên lớp. Chữ nghĩa thênh thang trên giảng đường vắng vẻ, trò khen thầy chữ tốt, thầy bảo trò viết cũng …phiêu diêu.
Học đến năm thứ hai, đột nhiên K30 bị nâng thời gian học từ bốn năm lên năm năm, đến khóa sau lại chỉ còn bốn năm. Có lẽ Bộ Giáo dục - Đào tạo thấy rằng, văn học là nhân học, mà kiếp nhân sinh thì như bóng bạch câu quá khích (bóng ngựa trắng qua khe cửa sổ), nên thương tình cho lũ sinh viên K30 khoa Văn thêm một năm ở lại trường mà làm thơ, uống rượu và luận bàn những chuyện trên mây…
Vậy là nếu mình nhớ không nhầm, đây là khóa ít người nhất và học nhiều (năm) nhất trong lịch sử khoa Văn. Nhưng ở khoa Văn, đa phần các dị nhân đều hay lạc bước “tăng ca” xuống khóa dưới, còn lại thì cũng không ít kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi hoặc ôm đầy một bụng chữ về quê cày ruộng. Vì học nhiều năm nhất, nên K30 cũng là nơi hứng nhiều dị nhân rơi rụng từ những năm trên xuống. Mình ít tuổi nhất khóa, nên sẽ viết trước về những dị nhân ở khóa trên đi qua K30, coi như kính lão vậy.
Ở bài trước, mình đã viết về Khanh. Hồi đó Khanh là một dị nhân có kích cỡ khổng lồ, nhưng lại không nổi bật và… đứng trên đỉnh khiến nhiều sinh viên khóa dưới, nhất là các em nữ phải ngước nhìn ngưỡng mộ như hai nhân vật mình sắp kể trong bài này. Cũng phải nói thêm, do quan niệm văn bút bất phân nên ngày ấy, các dị nhân khoa Văn tung câu ném chữ, cả bằng miệng lẫn bút trên búa xua các lĩnh vực Văn - Sử - Triết. Dĩ nhiên, Thơ vẫn là số một. Khanh không làm thơ nên ít có hào quang. Chói sáng nhất phải kể đến Hải và Hạnh, đều học K29, sau “tăng ca” xuống K30.
Hải người tỉnh H., hoạt ngôn, nói chuyện và đọc thơ đều như mây bay gió cuốn. Thơ Hải khẩu khí, kiểu như: “Nhất quả đất, chiều nay anh em mình uống cạn” v.v… Hạnh ở thành T., nói ít hơn Hải, ngôn ngữ mộc như hình hài, nhưng thơ có những câu xuất thần hay đến nao lòng, kiểu như “nước mắt rơi làm bỏng lá thu gầy”… Tóm lại, Hải sống như bay lượn trên mặt đất, còn Hạnh lại bước thấp, bước cao trên… mây.

Hải sống như bay lượn trên mặt đất, còn Hạnh lại bước thấp, bước cao trên… mây.
Nói về Hạnh và Hải, các em khoa Văn khóa dưới đa phần đều có một chút ngưỡng mộ. Vài em khác khó tính hơn thì nhăn mặt, bĩu môi: “hâm quá”, nhưng trong sổ tay lại len lén chép vài câu xao xuyến. Một lần, trong lúc nâng chén “luận anh hùng”, một bậc tiền bối mà sinh viên khoa Văn nhiều thế hệ đều yêu mến phán về Hải và Hạnh với mình như sau: “Hải là thằng làm thơ xong rồi …trèo lên bụng đàn bà, còn Hạnh là thằng trèo lên bụng đàn bà rồi… vẫn làm thơ”.
Xin lỗi các em, xin lỗi Hạnh và Hải, nhưng câu phán ấy của bậc tiền bối ngẫm ra thật chí lý. Những năm sinh viên, các cuộc tình đi qua đời trai của Hạnh và Hải đều nhiều như những câu thơ hai gã viết. Chỉ có điều, Hải tung tăng trong đời, trong thơ, trong tình ái, còn Hạnh thì vật vã trong mộng, trong yêu, trong viết lách… Hải theo kiểu “tình yêu chớp bể mưa nguồn - em châu chấu đá, anh chuồn chuồn bay”, còn Hạnh thuộc dạng “chỉ cần em nói một lời - là anh coi cả đất trời bằng vung”. Những chuyện gió mây của Hải và Hạnh mình chứng kiến cũng nhiều, nhưng thôi không tiện đề cập. Chỉ biết rằng, đa phần những cuộc chia tay và đổ vỡ của Hải đều chóng vánh như mưa bóng mây, còn của Hạnh thì sầm sập và dữ dội như bão cấp 12. Đó cũng là nguyên nhân dẫn đến một tình huống sau này của Hạnh, khiến gã phải trả giá khá đắt, may mà vượt qua được. Chuyện này những người đương thời đều biết nên mình không kể nữa.
Hồi ấy, trong bất kể đêm thơ và…bữa rượu nổi tiếng nào của khoa Văn đều không thể vắng Hạnh và Hải. Hạnh có một bài lục bát hay đọc trong các đêm thơ, có một câu ngọt ngào nhiều người thích: “Cào cào bay dọc tuổi thơ”. Còn Hải thì một em năm dưới xiêu lòng vì một bài thơ nghe tên đã rất sến: “Thì có sao đâu”, trong đó có những câu rất mị hoặc:
“Em lắc đầu giận dỗi những câu thơ
Viết tha thiết giữa rất nhiều ánh lửa
Những câu thơ vụng về khép mở
Em lắc đầu thì cũng có sao đâu”.
Thơ Hạnh hay, nhưng đọc nhiều khi như mê sảng. Một lần, có hội trại ở sân Mễ Trì và dĩ nhiên là có đêm thơ, D.P.V - một kiều nữ K30 miệng lưỡi và trí tuệ đều sắc nhọn như gai tầm xuân kéo tay mình chạy ra khoảng tối phía sau lều trại. Mình vừa ngạc nhiên vừa hoảng hốt, tim đập thùm thụp không biết cơn cớ gì đây(???). Ngoài sự tưởng tượng của mình, nàng chỉ: “Ông xem kìa, chàng đang vùng vằng đọc thơ đó”.
Hóa ra là Hạnh, đứng trong một góc tối nhất, áo kiểu người Mèo khoác trên vai, tay vung vẩy tự đọc thơ cho chính bản thân nghe thật. Mình bảo V.: “Sao lại dùng từ vùng vằng?”. Nhưng một lúc sau, khi thấy Hạnh lên sân khấu, vai đu đưa, đọc thơ trong bộ dáng vùng vằng, mình mới thấy V.dùng từ thật chính xác. Nhưng đó cũng là một bài khá ấn tượng của Hạnh, mình còn nhớ mấy câu đại loại như:
“Có một ngày đi giữa ngút ngàn xanh
Cây đơn lẻ gặp lòng anh kết trái
Anh ngang tàng để mùa không kịp hái
Đành bứt mình chín rụng trước vườn em…”.
Những năm ở trường, những buổi mình và Hạnh uống với nhau nhiều không nhớ hết. Hải thì ít hơn. Rồi cùng đi đọc thơ trong các đêm thơ khoa Văn Tổng hợp, rồi ĐH Sư phạm, Bách khoa, Kiến trúc, Xây dựng, Kinh tế Quốc dân, Cung Văn hóa Hữu nghị, Nhà văn hóa Sinh viên, Trung tâm phương pháp CLB ngoài Bờ hồ v.v… Cao đàm khoát luận về những chuyện viển vông, đại ngôn và vĩ cuồng… Rồi ra trường, 2 gã bặt vô âm tín, nhất là Hải.
Sau này mình mới biết Hải sang Lào, làm đại diện cho đại gia Minh “N.” một thời lừng lẫy tỉnh H. Sau công ty của Minh “N.” tan vỡ, Hải quay lại làm báo địa phương, nghe bạn bè bảo bây giờ Hải làm Chủ tịch Hội Nhà báo tỉnh. Còn Hạnh sau khi tốt nghiệp, làm Hội Văn nghệ tỉnh T. và lấy vợ cũng ở Hội Văn nghệ.
Chuyện Hạnh lấy vợ khốc liệt không kém gì chuyện Hạnh yêu hồi đi học. Mình nghe chuyện, không ngạc nhiên mà thấy phục Hạnh, phục vì sự lãng mạn đến khó tin của gã, lãng mạn đến mức chuyện gì cũng dám làm. Chỉ ngạc nhiên khi nghe tin sau khi gã về làm chủ tịch Hội văn nghệ tỉnh bên cạnh đã quay lại đèn sách với thầy Hà Minh Đức, lấy bằng tiến sĩ. Bạn bè bảo, tiến sĩ Hạnh bây giờ nghiêm ngắn lắm, khác với thi sĩ Hạnh “tin đời xa xót ở bàn tay” thuở sinh viên. Mình không tin, vì trong hình dung của mình, Hạnh bao giờ cũng là một dị nhân khoa Văn với đúng nghĩa của từ này, phất phơ cùng hoa cỏ, “đem tim cho tia nắng mặt trời” như một câu thơ của gã.
Gần đây gặp Hạnh ở Hà Nội, thấy như gặp một người khác. Mừng cho bạn sau những hưng phế thăng trầm đã cập được bến đỗ bình yên và có được những giá trị khác xưa. Ngậm ngùi vì sao mình trở thành người hoài cổ…
Mới đây, khi mình viết về Khanh, Hạnh bảo rằng: viết về những người bạn cũ với cảm nhận riêng là… đáng sợ ,vì mỗi người có số phận riêng. Mình quan niệm khác. Facebook là nơi để bày tỏ cảm nhận riêng. Có yêu mến, quý trọng nhau thì mới nhắc đến nhau. Quan trọng là nhắc đến nhau để nhớ về nhau, một thuở bạn bè buồn vui. Trân trọng kỷ niệm đâu có gì là đáng sợ? Với mình, chuyện của 30 năm trước ở khoa Văn là những giá trị không thay đổi theo thời gian. Đã định không viết về bạn nữa, nhưng rồi vẫn viết, vì nghĩ rằng mình viết về một dị nhân đã góp phần làm nên bản sắc khoa Văn một thuở - theo cảm nhận của mình, với tình yêu mến và niềm trân trọng. Đó là gia tài chung của nhiều thế hệ khoa Văn.
Hồi ức đôi khi là vết đâm ngọt vào năm tháng, nhưng chắc chắn những câu chuyện về tình bằng hữu, tình đồng môn không bao giờ là dao nhọn. Những gương mặt dị nhân, sau Trần Côn huyền thoại là rất nhiều người khác, trong đó có bạn, thực sự đã thắp lên thứ ánh sáng quyến rũ và huyền hoặc của khoa Văn, soi chiếu qua nhiều thế hệ, như lửa một lần được phát hiện ra từ đá và cháy mãi đến tận bây giờ. Bởi ngọn gió thời gian vẫn vô tình lạnh lẽo thổi qua đời này, mái đầu xanh rồi sẽ như rừng lau trắng, sao chúng ta không được quyền nhớ và viết về thuở ấy, Hạnh ơi!
Nguyễn Tiến Thanh