Họ là những người liên tục đưa vào mình đủ loại khói hương, đến mức chỉ cần nghe mùi có thể biết đó là loại hương gì. Thức đêm, khói hương và hơi lạnh từ quan tài người vừa chết làm cho cơ thể những người làm nghề trở nên tiều tụy. Nhưng với họ thì đã mang cái nghiệp vào thân rồi khó dứt ra bởi không chỉ là miếng cơm manh áo, mà còn là duyên phận với cõi âm, vì nghĩa tử là nghĩa tận, phải đưa đường chỉ lối cho "hồn ma" về với miền cực lạc, như thế họ mới thanh thảnh…
Nghề "làm bạn" với "người chết"
Ông Ngô Văn Tình ở huyện Nghi Lộc (Nghệ An) rất nổi tiếng trong vùng, ông ngồi hàng giờ kể cho chúng tôi về cái nghề "chỉ có ở Việt Nam", nếu xét ra thì ông đáng được phong "nghệ nhân". Thâm niên, kinh nghiệm và uy tín của ông cả vùng này ai cũng biết. Người ta nói, những người làm nghề khóc đám ma như ông, nhất là đã có thâm niên 40 năm trong cái nghề "độc" này rất hiếm, người "nối nghiệp" lại càng hiếm hơn.
Thế mà nay, thằng con trai đầu của ông cũng cắp kèn theo cha. Mỗi lần ông khóc, người quay quay, nghiêng ngả, chao đảo và miệng méo đi cố tạo ra tiếng khóc sao nghe cho đầy thương xót, đầy hiếu nghĩa... ông không khác gì một ca sĩ chạy xô khi trong vùng có nhiều đám. Họ chỉ thích mời ông bởi chất giọng "dân ca" xứ Nghệ thường được ông lồng vào tiếng khóc, nghe càng trở nên bi thương.
Ông Tình đưa bàn tay thô ráp, sần sùi vuốt mái tóc đã ngả nhiều sang màu sương. Dốc hết chén rượu vào cổ họng ông trầm ngâm: "Không có nghề chi khác cha con tôi mới phải mần cái nghề ni. Ai lại cả ngày cả đêm thức ngồi bên quan tài thổi kèn, khóc". Nhìn ông, làn da sạm lại tựa màu khói hương, pha chút nhợt nhạt của người chết tôi thấy rợn người. ông Tình bị viêm phổi nặng, có lẽ đó là hậu quả của khói huơng mà ông "thưởng thức" trong đời làm nghề của mình. Giọng nói khàn đặc, lúc lúc lại cho ra một chút đờm dính trong cổ họng. ông bị bệnh nghề nghiệp.
Thỏa, người con trai đầu, theo nghiệp cha đã được 6 năm nay. Dù vậy Thỏa cũng chưa dám "khóc" cho đám nào, chỉ chuyên thổi kèn phụ họa tiếng khóc của cha. Tóc để dài, hai bên mép như tòe ra, bụng hơi ưỡn về trước... dấu hiệu đặc trưng của dân chuyên "hít vào thổi ra".
Ngoài cha con ông, đội trống kèn của ông còn có thêm 3 người khác chuyên đánh trống, gõ chiêng, kéo nhị. Tất cả đều đã được tập luyện với nhau một cách nhuần nhuyễn, khi hành nghề họ phối hợp với nhau nhịp nhàng không thua kém một dàn nhạc thính phòng nào. Thường khi vào đám, họ thổi kèn, kéo nhị khóc lóc thảm thiết và... thâu vào băng catset. Khi mệt, khi ăn cơm họ có thể bật băng lên như thân chủ của họ đang thương tiếc khóc.
Tiếng khóc, tiếng nhạc không bao giờ được dừng lại trong đám. Lúc nhập quan, lúc làm lễ... dàn nhạc phải khóc, phải tạo nhạc "sống", không được bật băng. Cũng có lúc dàn nhạc không được phép cất tiếng khóc, lúc đó là gia chủ khóc, những tiếng khóc không nhiều lắm trong đám tang.
Khi có khách đến viếng là lúc dàn nhạc "kiếm ăn" được nhiều nhất. Mỗi vị khách, đoàn khách thường đặt cho dàn nhạc ít tiền, nói danh tính lập tức trên loa vang lên tiếng than khóc đối với người mất có kèm theo danh tính đoàn khách viếng. Mỗi đám người ta thường trả công cho "dàn nhạc" vài trăm nghìn, nhưng nguồn thu nhập từ việc khóc thuê cho khách viếng mới đem lại lợi nhuận cao. Điều này phụ thuộc vào vai vế, quan hệ của gia chủ.
Đám tang nhà giàu, có vai vế thường tạo cho dàn nhạc có được thu nhập lớn. Thứ nhất số lượng người đên viếng sẽ đông hơn, những đám này thường "viếng" người sống là chính. Thứ hai, phần nhiều những khách đến viếng thuộc hàng có tiền nên việc "boa" cho dàn nhạc nhiều cũng là điều dễ hiểu. Miễn làm sao trong tiếng than khóc kia danh tính của họ được nhắc tới thật to, đập vào được đôi tai người "cần viếng".
Góc khuất nghề oan nghiệt
Ông Tình khẳng định mình thành công trong việc khóc là nhờ có giọng hát dân ca khá mượt mà. Ngày trẻ ông thường tham gia các phong trào ca hát của địa phương, nhưng đó chỉ là tham gia cho có phong trào, nó không thể nuôi sống ông, thế là ông theo học nghề này. Lần đầu tiên đi khóc, ông khóc như đang... hát, mọi người trố mắt nhìn ông lạ lẫm, gia chủ tức tối không thuê ông mà... tự khóc. Sau lần đó ông quyết tâm tập khóc, hàng xóm của ông hàng tháng ròng phải nghe tiếng khóc, trong làng lúc nào cũng như có đám tang.
Còn nhớ, ngày đầu tiên ông tập khóc, hàng xóm chạy sang nhà ông rất đông vì tưởng có ai trong gia đình ông... về chầu trời. Đêm đêm trẻ con trong xóm không dám ra khỏi nhà vì sợ khi nghe tiếng "khóc" của ông. Từ khi ông khóc thành thạo, những đám hội hè, liên hoan văn nghệ trong vùng không ai dám mời ông tham gia, họ sợ lên sân khấu ông lại cất tiếng khóc.
Hồi đầu, mấy tay thanh niên đem khế chua, chanh chua đến bên ông ngồi ăn mỗi khi ông khóc, thế là bao nhiêu nước miếng cứ tuôn ra, tiếng khóc méo đi và lặng hẳn. ông lại quyết tâm tập luyện, nhìn đồ chua không trào nước miếng. Đến nay, ông đã bỏ được cảm giác vốn rất tự nhiên trong quá trình tiêu hóa. Sau này, khi ông đã vượt qua được những bài học cơ bản của nghề, việc trục trặc trong khi hành nghề rất hạn hữu.
Một lần, "dàn nhạc" của ông kèn trống, khóc lóc thâu vào băng xong xuôi không hiểu lí do gì, khi phát băng lại là tiếng khóc ông khóc cho đám tang khác, mà gia chủ của đám tang đó lại là hàng xóm ngay bên cạnh. Tên tuổi gia chủ, thân phận người chết đều được thay đổi hoàn toàn. Không ai để ý, phải đến khi người hàng xóm chạy sang la lối mới phát hiện ra. Thì ra ông quay nhầm mặt băng.
Khi đội kèn trống của ông đã nổi đình nổi đám ở xứ này các đám khác tự tiêu tan hoặc rời đi nơi khác vì ở đây không ai thuê. Thành ra đội của ông thành độc quyền trong cả vùng này. Nhiều người thường hay đùa ông: chỉ mong có người chết để kiếm cơm. Nghĩ cũng tủi, tặc lưỡi cho đó chỉ là lời nói đùa nên ông không để bụng. Nhưng nghe nhiều đâm ra lại để bụng. Lâu dần thành quen, người ta cứ thấy ông xuất hiện ở thôn, xóm nào lại nghĩ ở đó có đám tang. Người ta tránh mời những người trong đám khóc thuê của ông xông nhà ngày tết, những người như ông thường bị xem là biểu hiện của tang tóc, xui xẻo.
Người ta thông cảm nhưng không tránh được ác cảm về những người như ông. Tất cả các thành viên đội kèn trống của ông đều nghiện rượu. Hình như những họ uống để vượt qua cái cảm giác lạnh khi ngồi bên quan tài. Đám tang người ta thường để qua đêm, và đêm đó người làm việc mệt nhọc nhất là đội trống kèn. 5 người trong đội thì có 4 người bị xơ gan, ho mãn tính... những căn bệnh mang tính nghề nghiệp. Liên tục đưa vào mình đủ loại khói hương đến mức chỉ cần nghe mùi ông có thể biết đó là loại hương gì. Thức đêm, khói hương và hơi lạnh từ quan tài làm cho cơ thể những người làm nghề như ông Tình trở nên tiều tụy.
"Nghề ni nhiều khi bạc lắm các chú ạ!" - ông Tình kể về đám tang của chính gia đình mình. Ngày cha ông mất, là con trưởng ông phải lo toàn bộ mọi chuyện, phải chống gậy tre đứng bên quan tài. Trong vùng không còn đám khóc thuê nào làm việc, thế là đám tang của cha ông không người khóc. Họ hàng, con cháu chỉ khóc khi nhập quan, hạ huyệt, khi làm lễ. Mấy tay trống kèn trong đội chỉ biết lặng lẽ dạo nhạc. Thành ra, thi thoảng ông lại khóc vào chiếc micrô đặt bên cạnh cho đám tang bớt phần lặng lẽ. Đến tiếng khóc của ông với người cha mình nghe cũng giả dối, nghe như ông đang khóc thuê, đang tiếc thương hộ ai đó. ông thuộc những người khóc kiếm tiền, người ta bảo tiếng khóc của ông cũng mang tính thương mại. ông Tình than thở: "Sau tôi chết chắc người ta mở băng tiếng khóc của tôi cũng nên".
Dung Trần