Nét văn hoá độc đáo của làng chài
Tại khối Nghi Thuỷ 4, phường Cửa Lò, tỉnh Nghệ An, giữa những chiếc thúng composite đang làm dang dở, chúng tôi gặp vợ chồng ông Nguyễn Văn Đương (56 tuổi) và bà Nguyễn Thị Yến (51 tuổi), gia đình đã có hơn 30 năm làm nghề sản xuất thuyền thúng.

Gia đình ông Đương là một trong ít hộ dân vẫn còn giữ nghề làm thuyền thúng.
Ông Đương kể: "Ngày xưa chỉ có thúng bằng tre đan, đi câu mực, đánh lưới gần bờ. Sau này, chúng tôi vào tận miền Nam học hỏi, rồi chuyển sang làm thúng composite cho nhẹ, bền và đi xa hơn. Thuyền thúng xưa chỉ đi được 1-3 hải lý, thì nay đã tăng lên từ 5-7 hải lý, nhờ đó cũng thu được nhiều hải sản hơn".
Một chiếc thúng đi biển gồm hai phần chính: thân thúng và động cơ. Thân thúng thường rộng hơn 2 mét, cao khoảng 80 cm, được làm từ sợi thủy tinh kết hợp nhựa composite, tạo thành hình bán cầu vững chắc. Vành thuyền tròn đều, gia cố bằng lớp xốp nổi xung quanh.
Trong lòng thuyền được gia cố bằng một kết cấu gỗ hoặc tre đan ở giữa đường kính để làm chỗ ngồi. Động cơ chạy bằng xăng được gắn thêm để thay thế sức người, giúp ngư dân di chuyển linh hoạt, tiết kiệm sức lực và ra khơi xa hơn.
"Khó nhất là làm khung thúng sao cho cân đối. Phải trải sợi thủy tinh, trộn nhựa, đắp lên khuôn rồi chờ khô. Sau đó mới sơn màu và lắp động cơ. Hoàn thiện một chiếc thúng mất khoảng 10 ngày. Trung bình một tháng, gia đình làm được 3-4 chiếc", bà Yến chia sẻ.

Thuyền thúng hiện nay được đổi mới với chất liệu hiện đại, nhập khẩu nên rất ít khi hư hỏng.
Theo lời ông Đương, một gia đình thường chỉ đặt một đến hai chiếc thuyền thúng trong đời. Bởi sự bền bỉ, chắc chắn của thuyền thúng khiến người mua ít khi phải sửa chữa, chỉ đổi mới khi cần kích cỡ khác. Như vậy rất tiết kiệm, lại an toàn mỗi khi ra khơi.
Một chiếc thúng thành phẩm được bán ra có giá từ 10-15 triệu đồng, nếu lắp thêm động cơ thì dao động 15-25 triệu. Mặc dù vậy, sau khi trừ đi chi phí thì cũng chỉ đủ trang trải cuộc sống, song ông bà vẫn kiên trì với nghề. "Mê nghề biển nên cứ làm thôi, như cái duyên với sóng nước vậy", ông Đương nói.
Ngày nay, số gia đình còn giữ nghề làm thuyền thúng ở Cửa Lò hầu như rất ít. Phần lớn những người thợ đã bỏ nghề vì thu nhập không cao, lại phải dầm sương phơi nắng. Nhưng với vợ chồng ông Đương, bà Yến, nghề này không chỉ là để mưu sinh mà còn là một phần của cuộc sống, một cách để giữ lại nét văn hóa độc đáo của làng chài ven biển.
Mưu sinh nghề thuyền thúng
Cứ mỗi buổi sáng sớm, tại ven đảo Lan Châu, phường Cửa Lò, gần 100 chiếc thuyền thúng nối đuôi nhau ra khơi đánh cá, tôm tươi ngon, sau đó quay về bán ngay cho du khách trên bãi biển, tạo nên một khung cảnh vô cùng nhộn nhịp.

Tại làng chài Cửa Lò vẫn có hàng trăm hộ giữ nghề thuyền thúng.
Trải qua hàng trăm năm, không ai nhớ chính xác thuyền thúng xuất hiện từ khi nào. Theo lời kể của các bậc cao niên, vào thời Pháp thuộc, trước sưu cao thuế nặng, ngư dân đã nghĩ ra cách làm thuyền thúng, tuy nhỏ bé nhưng dễ xoay trở, để đánh bắt ven bờ mà tránh sự quản lý ngặt nghèo.
Với hình dạng tròn, nhẹ, thuyền thúng không cắt sóng như thuyền lớn mà nhấp nhô theo sóng, hiếm khi bị lật. Chúng có thể dễ dàng được đẩy xuống biển từ bãi cát, tiện lợi hơn nhiều so với tàu thuyền nặng nề. Ngoài đánh bắt cá, mực, thuyền thúng còn được dùng làm phương tiện cứu sinh, chở hàng hóa nhẹ, thậm chí trở thành vật trang trí trong các lễ hội, khu du lịch biển.

Nghề thuyền thúng trở thành biểu tượng của sự bền bỉ, của tinh thần vươn khơi bám biển.
Ông Võ Văn Trí (53 tuổi, ngư dân phường Cửa Lò) cho biết: "Vào khoảng 3 – 4h sáng, các ngư dân sẽ chèo thuyền thúng ra biển để thả lưới. Đến tầm 7h, các thuyền quay về để kịp bán cho khách, sau đó tiếp tục ra biển và vào bờ lúc 11h".
Ngư dân này cho biết thêm, nghề này được cha ông truyền lại, đến nay, ông đã có hơn 30 năm gắn bó. Mặc dù đánh bắt bằng thuyền thúng là một nghề khá nguy hiểm, vất vả, phải thức khuya dậy sớm, thu nhập phụ thuộc vào thời tiết, tuy nhiên lại là nghề mưu sinh của nhiều ngư dân ven biển.

Không biết có từ bao giờ và cứ như thế, nghề lưới thúng gần bờ vẫn được duy trì cho đến hôm nay.
Những đôi bàn tay rám nắng của ngư dân vẫn âm thầm giữ nghề, như giữ lại hồn cốt biển cả. Để rồi mai này, dù thời gian đổi thay, giữa tiếng động cơ ầm ì của tàu lớn, tiếng sóng vỗ bãi cát, người ta vẫn thấy bóng dáng những chiếc thuyền thúng mộc mạc, biểu tượng của sự kiên cường của ngư dân Việt.