Sáng 27/7, Phó Thủ tướng Lê Minh Khái họp Tổ công tác số 2 của Thủ tướng Chính phủ đôn đốc giải ngân vốn đầu tư công tại 8 bộ ngành Trung ương và 4 địa phương khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
Tỉ lệ giải ngân thấp hơn mức bình quân chung của cả nước
Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư nêu rõ, tổng kế hoạch đầu tư vốn NSNN năm 2022 Thủ tướng Chính phủ giao cho 8 bộ ngành và 4 địa phương Thuộc Tổ công tác số 2 là 24.723 tỷ đồng (8 bộ ngành gồm: Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, Thanh tra Chính phủ, Văn phòng Trung ương Đảng, Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, Thông tấn xã Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam; các địa phương gồm: Cần Thơ, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu).
Đến nay các bộ, ngành, cơ quan Trung ương và địa phương đã cơ bản hoàn thành phân bổ, giao chi tiết cho từng nhiệm vụ, dự án, chỉ còn một số đơn vị chưa phân bổ chi tiết.
Về giải ngân, theo báo cáo của Bộ Tài chính, ước tổng số giải ngân vốn NSNN của 8 bộ ngành, cơ quan Trung ương đến hết tháng 7/2022 là 424.263 tỷ đồng, đạt 12,2% kế hoạch năm 2022 được Thủ tướng Chính phủ giao, thấp hơn mức bình quân chung cả nước.
Đối với 4 địa phương Tây Nam Bộ, tổng số vốn NSNN đã giải ngân tính đến 30/6 là 5.225,353 tỷ đồng, đạt 23,5%.
Trong đó, nguồn vốn ngân sách Trung ương giải ngân đạt 21,3%; nguồn vốn ODA giải ngân đạt 6,1%, nguồn vốn ngân sách địa phương giải ngân đạt 27,6%. Ước giải ngân 7 tháng của 4 địa phương đến 30/7 khoảng 6.968,9 tỷ đồng, đạt 31,9% kế hoạch, thấp hơn mức bình quân chung của cả nước là 34,47%.

Phó Thủ tướng Lê Minh Khái họp Tổ công tác số 2 của Thủ tướng Chính phủ đôn đốc giải ngân vốn đầu tư công (Ảnh: VGP).
Theo tổng hợp từ báo cáo, các khó khăn vướng mắc là do: Giá nguyên vật liệu tăng cao; vướng mắc trong bồi thường, giải phóng mặt bằng; đối với các dự án khởi công mới, nhiều công trình đang trong giai đoạn đấu thầu và thương thảo hợp đồng.
Một số dự án được bố trí nhiều vốn để đền bù giải phóng mặt bằng nhưng tiến độ rất chậm; các dự án cũng gặp một số vướng mắc liên quan đến thể chế.
Báo cáo nêu rõ, bên cạnh nguyên nhân khách quan, nguyên nhân chủ quan là do công tác tổ chức thực hiện còn nhiều hạn chế; công tác chuẩn bị dự án chất lượng thấp nên vướng mắc khi triển khai; công tác thẩm định, tư vấn còn chậm…
Bên cạnh đó, các đơn vị, bộ, ngành (thuộc Tổ số 2) còn thiếu cán bộ chuyên môn về xây dựng. Do nhiệm vụ đầu tư xây dựng và kế hoạch đầu tư hằng năm không lớn nên bộ máy giúp việc cho Thủ trưởng đơn vị có dự án đầu tư là kiêm nhiệm; một số Ban quản lý dự án, chủ đầu tư, nhà thầu yếu kém về năng lực.
Chưa có bình luận. Hãy là người đầu tiên bình luận bài viết này.