Diễn biến phức tạp
Ngày 7/9, Cục phòng bệnh (Bộ Y tế) đã có công văn khẩn về công tác phòng ngừa bệnh tả. Cục phòng bệnh cho biết, theo WHO từ đầu năm 2025 đến đã có 409.222 trường hợp mắc bệnh (4.738 ca tử vong) được báo cáo tại 31 quốc gia trên toàn cầu, trong đó ghi nhận 6/31 quốc gia báo cáo tỷ lệ tử vong trên 1%.
WHO đánh giá tình hình dịch tả toàn cầu đang trở nên phức tạp, với các đợt bùng phát xảy ra ở 31 quốc gia với tỷ lệ tử vong tăng cao và được đánh giá là "Do quy mô, mức độ nghiêm trọng và tính chất liên kết của các đợt bùng phát này, nguy cơ lây lan thêm trong và giữa các quốc gia là rất cao".
Trong 12 năm gần đây, Việt Nam chưa ghi nhận trường hợp mắc bệnh tả. Tuy nhiên, không loại trừ nguy cơ bệnh tả xâm nhập Việt Nam do sự giao lưu thương mại, du lịch rộng mở của nước ta với các nước khác trên thế giới và có thể lây lan ra cộng đồng.

Tuy chưa ghi nhận ca mắc bệnh tả, nhưng không loại trừ nguy cơ bệnh xâm nhập do sự giao lưu thương mại, du lịch.
Ngay khi có thông tin ghi nhận tình hình và khuyến cáo về bệnh tả của WHO, Bộ Y tế đã chủ động liên hệ để cập nhật, trao đổi thông tin về tình hình dịch bệnh trên toàn cầu, đánh giá nguy cơ mắc bệnh Tả tại Việt Nam.
Theo dõi chặt chẽ và cập nhật thông tin hàng ngày diễn biến tình hình dịch bệnh, báo cáo kịp thời lãnh đạo Bộ, Chính phủ khi có tình huống bất thường xảy ra, cung cấp thông tin cho báo chí; điều chỉnh các biện pháp phòng chống dịch kịp thời.
Để chủ động và tăng cường công tác phòng chống bệnh tả trong thời gian tới, Cục Phòng bệnh khuyến nghị các đơn vị thuộc, trực thuộc Bộ Y tế tiếp tục theo dõi chặt chẽ tình hình dịch bệnh và chỉ đạo các tỉnh, thành phố tăng cường công tác phòng chống dịch bệnh.
Tổ chức họp đánh giá nguy cơ dịch bệnh lây truyền vào Việt Nam với sự tham gia của các chuyên gia quốc tế (WHO, CDC Hoa Kỳ) và chuyên gia trong nước để kịp thời đề xuất các hoạt động phòng, chống dịch phù hợp. Tăng cường đi kiểm tra, chỉ đạo, giám sát tại cửa khẩu và các khu vực có nguy cơ cao xâm nhập vào Việt Nam.
Cục Quản lý Khám, chữa bệnh tiếp tục hoàn thiện hướng dẫn chuyên môn và chỉ đạo các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh thực hiện nghiêm việc điều trị, chẩn đoán bệnh tả theo quy định của Bộ Y tế về hướng dẫn chẩn đoán, điều trị bệnh tả.
Đối với các Viện Vệ sinh dịch tễ/Pasteur, các bệnh viện tuyến Trung ương phối hợp với các tỉnh tập trung giám sát chặt chẽ tình hình dịch bệnh; tăng cường chỉ đạo công tác phòng chống bệnh tả trên địa bàn phụ trách.
Đẩy mạnh giám sát tình hình bệnh tả và hỗ trợ, hướng dẫn các địa phương công tác phòng, chống bệnh tả theo Quyết định số 1640/QĐ-BYT ngày 14/5/2010 của Bộ Y tế về hướng dẫn xử lý ổ dịch tả.
Đề nghị Sở Y tế các tỉnh, thành phố tăng cường giám sát dịch ngay tại cửa khẩu, tại các cơ sở y tế và cộng đồng nhằm phát hiện sớm ca bệnh nghi ngờ, đặc biệt tại những khu vực có người trở về từ vùng có dịch. Khi phát hiện trường hợp nghi ngờ, cần tiến hành lấy mẫu bệnh phẩm để chẩn đoán xác định kịp thời.
Chỉ đạo các cơ sở khám, chữa bệnh tổ chức tốt việc thu dung điều trị bệnh nhân, khai thác tiền sử bệnh, khám, điều trị kịp thời và thực hiện nghiêm việc điều trị, chẩn đoán bệnh tả, điều trị bệnh tả; đồng thời có kế hoạch phân cấp chuyên môn, tránh tình trạng quá tải bệnh viện…
Bệnh tả lây nhiễm thế nào?
Theo Cục phòng bệnh, tả là một bệnh truyền nhiễm có các triệu chứng chính là tiêu chảy, mất nước và rối loạn điện giải cấp tính, có thể gây thành dịch lớn với tỷ lệ tử vong cao.
Tác nhân gây bệnh tả là vi khuẩn tả Vibrio cholerae, nhóm huyết thanh O1 và O139, gồm 2 týp sinh học: týp cổ điển (Classica) và týp E1 Tor. Mỗi týp sinh học lại gồm 3 týp huyết thanh là Inaba, Ogawa và Hikojima. Ở Việt Nam chủ yếu gặp 2 týp huyết thanh là Inaba, Ogawa.
Bệnh tả lây theo đường tiêu hóa, chủ yếu qua ăn, uống. Vi khuẩn tả xâm nhập vào đường tiêu hóa của người lành từ nước uống và thức ăn có nhiễm vi khuẩn tả, đặc biệt là thức ăn có nguồn gốc thủy hải sản.
Khoảng 75% người nhiễm vi khuẩn tả là không có biểu hiện triệu chứng bệnh, tuy nhiên họ vẫn đào thải vi khuẩn ra môi trường trong vòng 7 - 14 ngày. Trong số những người có biểu hiện triệu chứng, 80% là ở thể nhẹ và vừa, 20% có biểu hiện mất nước nặng.
Vi khuẩn tả có thể tồn tại lâu ở vùng nước lợ nơi cửa sông hay ven biển. Trong nước vi khuẩn tả sống ký sinh chủ yếu ở các loài động, thực vật thủy sinh phù du như rong, tảo, đặc biệt ở các động vật giáp xác như tôm, cua, sò, ốc, hến…