Theo đánh giá, thời gian qua, phòng vệ thương mại (PVTM) được xem là công cụ hữu hiệu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các ngành sản xuất nội địa trong bối cảnh Việt Nam tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA) như hiện nay.
Trong bối cảnh Việt Nam tham gia ngày càng sâu rộng vào các FTA, đặc biệt là các FTA thế hệ mới, các vụ việc phòng vệ thương mại gồm chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam sẽ ngày càng nhiều hơn với tính chất phức tạp gia tăng.
Ở chiều ngược lại, một số ngành sản xuất trong nước cũng phải chịu áp lực từ việc gia tăng nhập khẩu do các tác động mở cửa thị trường và cần đến những công cụ chính sách về phòng vệ thương mại để bảo vệ lợi ích của ngành.
Vụ việc EU điều tra PVTM ở Việt Nam đang ở mức thấp
Theo bà Phạm Châu Giang - Phó Cục trưởng Cục Phòng vệ thương mại, Bộ Công Thương cho biết: “Việt Nam chưa nằm trong danh sách bị các nước EU điều tra nhiều về PVTM. Lí do là chúng ta chưa xuất nhiều đến thế”.

Bà Phạm Châu Giang - Phó Cục trưởng Cục Phòng vệ thương mại, Bộ Công Thương.
Giải thích về điều này, bà thông tin thêm, về mặt nguyên tắc, xuất càng nhiều, PVTM sẽ càng lớn. Theo thống kê, ở thời điểm hiện tại, thị phần của Việt Nam trong xuất khẩu vào EU chỉ chiếm hơn 2%, số liệu này là rất nhỏ so với lượng nhập khẩu của EU.
Về cơ bản, phòng vệ thương mại là 3 biện pháp: chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ. Khi có kết quả cuối cùng có thể áp thuế hạn ngạch hoặc hạn ngạch thuế quan. Và các biện pháp ấy luôn chồng lên tất cả các biện pháp thuế FTA bất kể thời điểm nào. Đó là lí do vì sao các biện pháp phòng vệ thương mại là “chiếc van an toàn” khi các nước tham gia vào FTA.
Đối với PVTM, cho tới hiện tại, áp dụng nhiều nhất là Ấn Độ, trước đây là Mỹ, sau đó là EU, Brazil và một số nước. Việt Nam may mắn không có tên trong danh sách này, nghĩa là chúng ta chưa ở thế cạnh tranh khó khăn đến mức phải sử dụng biện pháp PVTM.
Mặt khác, khi xét trên số lượng điều tra PVTM của EU đối với Việt Nam còn tương đối khiêm tốn, cho tới thời điểm này, chính xác là mới có 14 vụ việc. Thời kỳ EU điều tra nhiều là những năm 2000-2006, cho đến những năm sau, mỗi năm chỉ lẻ tẻ một vụ việc.
Đồng thời, bà Giang cho rằng, hầu như biện pháp PVTM ở thời điểm hiện tại không tác động nhiều đến hoạt động xuất khẩu hay sản xuất của Việt Nam.