Quy định một số nội dung cốt lõi trong quản lý Nhà nước về tài sản số

Hoàng Thị Bích

Hoàng Thị Bích

Thứ 7, 14/06/2025 10:22

Sáng 14/6, với 441/445 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành (chiếm 92,26%), Quốc hội chính thức thông qua Luật Công nghiệp công nghệ số.

Luật chỉ quy định mang tính nguyên tắc

Luật này quy định về phát triển công nghiệp công nghệ số, công nghiệp bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, tài sản số, quyền và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.

Quy định một số nội dung cốt lõi trong quản lý Nhà nước về tài sản số- Ảnh 1.

Quốc hội chính thức thông qua Luật Công nghiệp công nghệ số (Ảnh: Hoàng Bích).

Trước khi biểu quyết, trình bày báo cáo về việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy cho biết, về tài sản số, có ý kiến cho rằng cần xây dựng một khung pháp lý tài sản số quy định chi tiết các vấn đề cốt lõi, xác định ngay các nội dung phải thực hiện (quyền tài sản, quyền sở hữu, giao dịch, bảo mật, trách nhiệm, giải quyết tranh chấp, quản lý rủi ro)..., vừa bảo đảm tính thống nhất với hệ thống pháp luật hiện hành và thông lệ quốc tế, đồng thời thiết lập cơ chế quản lý, giám sát, phòng ngừa rủi ro; làm rõ tài sản số có thể sử dụng cho mục đích trao đổi hoặc đầu tư hay không; đề nghị làm rõ nội hàm, tiêu chí phân loại tài sản số.

Ông Huy cho biết, UBVTQH thấy rằng, theo dự thảo Luật, tài sản số đã được quy định là tài sản theo pháp luật dân sự hiện hành. Quyền tài sản, quyền sở hữu, giao dịch, bảo mật, trách nhiệm, giải quyết tranh chấp, quản lý rủi ro… đã được điều chỉnh theo quy định của pháp luật hình sự, pháp luật về phòng chống tham nhũng, chống rửa tiền và pháp luật có liên quan.

Do đó, nhằm bảo đảm tính khả thi, linh hoạt và ổn định của hệ thống pháp luật, dự thảo Luật chỉ quy định mang tính nguyên tắc về vấn đề này và giao Chính phủ quy định cụ thể cho phù hợp với thực tiễn phát triển.

Tiếp thu ý kiến ĐBQH, dự thảo Luật đã quy định cụ thể hơn một số nội dung cốt lõi trong quản lý Nhà nước về tài sản số (bao gồm việc tạo lập, phát hành, lưu trữ, chuyển giao, xác lập quyền sở hữu tài sản số; quyền, nghĩa vụ của các bên đối với hoạt động có liên quan đến tài sản số; biện pháp bảo đảm an toàn thông tin, an ninh mạng; phòng, chống rửa tiền, phòng, chống tài trợ khủng bố, tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt; thanh tra, kiểm tra, xử lý hành vi vi phạm pháp luật; điều kiện kinh doanh đối với cung cấp dịch vụ tài sản mã hóa…).

Đồng thời, giao Chính phủ quy định chi tiết về thẩm quyền, nội dung quản lý, phân loại tài sản số phù hợp với thực tiễn, yêu cầu quản lý trong các ngành, lĩnh vực.

9 chính sách vượt trội phát triển công nghiệp công nghệ số

Luật cũng quy định 9 chính sách phát triển công nghiệp công nghệ số cụ thể gồm:

Một là, huy động nguồn lực đầu tư cho nghiên cứu, phát triển, thiết kế, chuyển giao công nghệ; từng bước làm chủ công nghệ số; xây dựng hạ tầng công nghiệp công nghệ số dùng chung quy mô vùng, quốc gia nhằm thúc đẩy hoạt động công nghiệp công nghệ số.

Hai là, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực công nghiệp công nghệ số; phát triển cơ sở giáo dục, cơ sở giáo dục nghề nghiệp chuyên ngành công nghệ số; có cơ chế ưu đãi đặc biệt nhằm thu hút, trọng dụng nhân lực công nghiệp công nghệ số chất lượng cao, nhân tài công nghệ số.

Quy định một số nội dung cốt lõi trong quản lý Nhà nước về tài sản số- Ảnh 2.

Các ĐBQH biểu quyết thông qua các dự án Luật (Ảnh: Media Quốc hội).

Ba là, có cơ chế thử nghiệm có kiểm soát đối với sản phẩm, dịch vụ ứng dụng công nghệ số trong các ngành, lĩnh vực, trong đó có cơ chế loại trừ trách nhiệm đối với cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trong thử nghiệm.

Bốn là, có cơ chế ưu đãi về đất đai, tín dụng, thuế và các cơ chế ưu đãi khác trong nghiên cứu, thử nghiệm, phát triển, sản xuất, ứng dụng sản phẩm, dịch vụ công nghệ số.

Năm là, phát triển thị trường cho công nghiệp công nghệ số; có cơ chế đặt hàng, ưu tiên đầu tư, thuê, mua sắm sản phẩm, dịch vụ công nghệ số sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước.

Sáu là, phát triển dữ liệu số trong hoạt động công nghiệp công nghệ số trở thành tài nguyên, tư liệu sản xuất quan trọng và là nền tảng phục vụ nghiên cứu, phát triển, thúc đẩy công nghiệp công nghệ số.

Bảy là, đẩy mạnh phát triển, ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong các ngành, lĩnh vực và các mặt của đời sống kinh tế - xã hội; đưa trí tuệ nhân tạo trở thành phương thức sản xuất mới; thúc đẩy mạnh mẽ năng lực nội sinh quốc gia, tạo ra những mô hình kinh tế mới với năng suất và giá trị vượt trội. Nhà nước có chính sách ưu đãi cao nhất để thúc đẩy, nghiên cứu, phát triển, triển khai, sử dụng trí tuệ nhân tạo.

Tám là, có chính sách ưu đãi vượt trội để phát triển ngành công nghiệp bán dẫn, hình thành hệ sinh thái bán dẫn Việt Nam.

Chín là, phát triển công nghiệp công nghệ số bền vững, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, giảm thiểu tác động xấu đến môi trường.

Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2026, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này (Khoản 2. Điều 50. Các Điều 11, 28 và 29 của Luật này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/7/2025).

Cảm ơn bạn đã quan tâm đến nội dung trên. Hãy tặng sao để tiếp thêm động lực cho tác giả có những bài viết hay hơn nữa.
Đã tặng: 0 star
Tặng sao cho tác giả
Hữu ích
5 star
Hấp dẫn
10 star
Đặc sắc
15 star
Tuyệt vời
20 star

Bạn cần đăng nhập để thực hiện chức năng này!

Bình luận không đăng nhập

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.