Nguyễn Thị Lộ (1400 -1442), quê làng Hải Hồ, sau đổi là làng Hải Triều, tên nôm là làng Hới (làng nghề dệt chiếu nổi tiếng), tổng Thanh Triều thuộc huyện Ngự Thiên phủ Tân Hưng (ngày nay thuộc xã Tân Lễ huyện Hưng Hà tỉnh Thái Bình). Nguyễn Thị Lộ sinh trưởng trong một gia đình nhà nông, làm ruộng và dệt chiếu, nhưng khá giả, cha là ông Nguyễn Mỗ[cần dẫn nguồn]. Nguyễn Thị Lộ sinh ra khi đất nước bị nhà Minh đô hộ, ông Nguyễn Mỗ, cha bà bị bắt đi phu dịch xa nhà, khổ cực, bị bệnh mất sớm. Ngoài nghề dệt chiếu ông Nguyễn Mỗ còn có thêm nghề bốc thuốc, và để truyền dạy nghề thuốc cho con, ông đã cho Nguyễn Thị Lộ ăn học tử tế các sách kinh thư, y dược,... Nhờ đó Nguyễn Thị Lộ còn biết bốc thuốc, làm thơ. Bà nổi tiếng là người rất đẹp, văn chương rất hay. Sau khi cha chết, bà phải cùng mẹ tần tảo nuôi dạy các em, phải đem chiếu đi bán và trong một lần lên kinh thành bán chiếu bà đã gặp Nguyễn Trãi, rồi trở thành người bạn đời của Nguyễn Trãi, cùng Nguyễn Trãi vào Lam Sơn tụ nghĩa. Tại Lam Sơn, Nguyễn Thị Lộ là trợ thủ đắc lực cho ông mọi công việc. Từ thời ở Lam Sơn bà đã làm thày dạy con em thủ lĩnh và nghĩa quân. Thái Tông lên ngôi bà được tuyển vào cung, phong làm Lễ nghi học sĩ. Bà là người phụ nữ đầu tiên ở chức vụ này. Ở cương vị Lễ nghi học sĩ “Bà soạn thảo và cho chẩn chỉnh nhiều phong tục từ trong cung ra đến ngoài triều… xin chỉ dụ vua cho mở mang nền học vấn dân tộc khuyến khích phụ nữ học chữ thánh hiền.” Không chỉ là một nhà giáo, Nguyễn Thị Lộ còn là một nhà thơ “Văn thơ của bà đã thất truyền nhiều, chỉ còn mấy vần thơ xướng hoạ khi gặp Nguyễn Trãi (và một bức hình thư gửi Nguyễn Trãi), nhưng tên tuổi đã gắn liền vào văn học sử nước nhà từ thời ấy và trở thành một giai thoại văn học để lại cho đời”. Đại Việt Sử ký toàn thư và Khâm định Việt sử thông giám cương mục có chép rằng "...Nguyễn Thị Lộ ra vào cung cấm, Thái Tông trông thấy rất ưa, liền cợt nhả với thị..." hay "...ngày đêm cho hầu ở bên, nhân đó, sàm sỡ với Thị Lộ..." nên nguyên nhân cái chết của vua Lê Thái Tông thực sự là gì cho tới nay vẫn chưa rõ, do cả 2 quyển sử nói trên đều chép rằng bà có vào hầu vua suốt đêm 4 tháng 8 âm lịch năm Nhâm Tuất 1442, hôm ông vua này mất, mặc dù Khâm định Việt sử cho rằng ông bị sốt rét còn Đại Việt Sử ký toàn thư thì nói là bị bạo bệnh. Bà bị giết vào ngày 16 tháng 8 âm lịch cùng năm. |
Chưa có bình luận. Hãy là người đầu tiên bình luận bài viết này.