Vận hành hồ chứa trước câu hỏi: Có nên hạ mực nước hồ để đón lũ?

Nguyễn Phương Anh

Nguyễn Phương Anh

Thứ 6, 21/11/2025 17:31 GMT+7

Trước bối cảnh mưa lũ ngày càng cực đoan, sự phối hợp chặt chẽ giữa thủy lợi và thủy điện, cùng việc ứng dụng công nghệ mới và dữ liệu hiện đại, sẽ là nền tảng để bảo đảm an toàn hạ du và phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.

Chiều 21/11, Diễn đàn "Chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ trong vận hành, bảo đảm an toàn đập, hồ chứa nước" đã được tổ chức nhằm tạo không gian trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm và định hướng lộ trình chuyển đổi số trong quản lý an toàn đập, hồ chứa nước.

Tăng cường dữ liệu và công nghệ để ứng phó với mưa lũ cực đoan

Chia sẻ tại Diễn đàn, ông Phan Tiến An - Trưởng Phòng An toàn hồ đập và hồ chứa nước (Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi, Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho biết, cả nước hiện có hơn 7.300 đập, hồ chứa thủy lợi, giữ vai trò đảm bảo nước tưới, cấp nước sinh hoạt và tạo nguồn cho nhiều ngành kinh tế. Nhờ sự quan tâm của các cấp, mùa mưa lũ 2025 tuy diễn biến dữ dội nhưng không xảy ra sự cố lớn, các hồ lớn vận hành tương đối hợp lý.

Vận hành hồ chứa trước câu hỏi: Có nên hạ mực nước hồ để đón lũ?- Ảnh 1.

Ông Phan Tiến An - Trưởng Phòng An toàn hồ đập và hồ chứa nước (Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi, Bộ Nông nghiệp và Môi trường).

"Thế nhưng, đằng sau đó là hàng loạt khó khăn kéo dài, đặc biệt ở nhóm hồ vừa và nhỏ do địa phương quản lý. Tỉ lệ thực hiện các yêu cầu bắt buộc về an toàn đập vẫn rất thấp, chỉ 30% hồ có phương án ứng phó khẩn cấp, 9% được kiểm định an toàn và chỉ 19% lắp thiết bị quan trắc", ông An cho biết.

Thách thức lớn nhất mà toàn ngành hiện phải đối mặt là thiếu dữ liệu kỹ thuật đầy đủ và hệ thống công nghệ đồng bộ, quản lý thủ công; dữ liệu không được cập nhật, không liên thông, khiến việc tổng hợp phục vụ chỉ đạo gặp rất nhiều khó khăn.

Đại diện Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi cũng chỉ ra rằng, khả năng tiêu thoát nước và chống ngập của nhiều vùng hạ du đang vượt ngưỡng chịu đựng, trong khi hệ thống cảnh báo ở các hồ nhỏ vẫn chủ yếu thủ công. 

Hạ tầng công nghệ thông tin không đủ mạnh để xử lý dữ liệu lớn; nguồn lực đầu tư quá hạn chế, mới đáp ứng khoảng 11,8% nhu cầu bảo trì và chủ yếu dùng để sửa chữa công trình, không có kinh phí cho công nghệ.

Để giải quyết những bất cập này, ông An cho rằng cần thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ trong toàn bộ chuỗi quản lý hồ chứa. Trước hết là hoàn thiện thể chế, sửa đổi các quy định pháp lý, ban hành tiêu chuẩn chung cho cơ sở dữ liệu, quan trắc và phần mềm vận hành. Cơ sở dữ liệu ngành phải được chuẩn hóa và vận hành theo nguyên tắc dùng chung, cho phép địa phương dùng phần mềm riêng nhưng bắt buộc kết nối qua API chuẩn.

Song song đó, cần đầu tư hoặc thuê dịch vụ quan trắc hiện đại, xây dựng hệ thống cảnh báo tự động, nâng cao năng lực cán bộ trong phân tích dữ liệu và vận hành công nghệ mới.

Ông An khẳng định: "Khi dữ liệu được chuẩn hóa, hệ thống quan trắc đầy đủ và công nghệ hỗ trợ ra quyết định được áp dụng rộng rãi, công tác vận hành hồ chứa sẽ an toàn hơn, kịp thời hơn và đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ biến đổi khí hậu ngày càng khắc nghiệt".

Nhằm tăng cường dữ liệu và công nghệ để vận hành công trình thủy lợi an toàn, ông Nguyễn Văn Mạnh - Đại diện Viện Quy hoạch Thủy lợi đề xuất xây dựng cơ sở dữ liệu lớn dùng chung cho toàn ngành theo tiêu chuẩn quốc tế, chuẩn hóa định danh công trình và quy trình chia sẻ dữ liệu từ trung ương đến địa phương.

Vận hành hồ chứa trước câu hỏi: Có nên hạ mực nước hồ để đón lũ?- Ảnh 2.

Ông Nguyễn Văn Mạnh - Đại diện Viện Quy hoạch Thủy lợi.

Ngành thủy lợi cần kết nối và chia sẻ dữ liệu đồng bộ với hệ thống khí tượng thủy văn quốc gia, mạng lưới đo mưa tự động Vrain và các nền tảng thời tiết như WeatherPlus. Việc này giúp đảm bảo tất cả đơn vị vận hành đều có cùng một nguồn dữ liệu đầu vào, hạn chế sai số khi tính toán. Cùng với đó, ngành cần đẩy mạnh ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) để phân tích nhanh dữ liệu mưa, dòng chảy và hỗ trợ dự báo.

Ông Mạnh nhấn mạnh: "Yếu tố quyết định vẫn là con người. Đội ngũ chuyên gia phải được duy trì trực vận hành mô hình thường xuyên, kể cả trong thời điểm không có lũ, nhằm liên tục kiểm tra, hiệu chỉnh dữ liệu và đảm bảo hệ thống luôn trong trạng thái sẵn sàng. Chỉ khi đó chất lượng dự báo mới được cải thiện và việc ứng phó với thiên tai mới thực sự chủ động".

Mưa lũ cực đoan đã phơi bày loạt vấn đề trong vận hành hồ chứa

Những đợt mưa lũ dồn dập vừa qua, theo ông Nguyễn Tùng Phong - Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đã phơi bày hàng loạt vấn đề trong cả dự báo thời tiết lẫn vận hành liên hồ chứa.

Vận hành hồ chứa trước câu hỏi: Có nên hạ mực nước hồ để đón lũ?- Ảnh 3.

Ông Nguyễn Tùng Phong - Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Môi trường).

Ông đặt ra câu hỏi then chốt: "Liệu chúng ta có nên duy trì mực nước hồ ở mức dâng bình thường như quy trình hiện hành, hay cần hạ thấp hơn để tăng dung tích đón lũ trong bối cảnh thời tiết ngày càng bất thường?".

Theo ông Phong, việc xác định mực nước trước lũ luôn là quyết định khó và phải dựa trên cơ sở khoa học, bởi nó gắn trực tiếp đến an toàn công trình, an toàn hạ du và nhu cầu tích nước cho sản xuất. Thực tế những trận lũ gần đây cho thấy dung tích phòng lũ của nhiều hồ chứa đang không còn đủ dư địa như trước.

Nhấn mạnh yếu tố dự báo, ông cho biết nhiều đơn vị hiện vẫn phụ thuộc vào mô hình quốc tế. Trong khi đó, các nhà khoa học đã chỉ rõ cần xây dựng mô hình dự báo chuyên biệt cho từng lưu vực hồ để nâng cao độ chính xác.

"Biến đổi khí hậu khiến mưa lũ khó lường và dễ vượt xa các thông số thiết kế cũ. Dự báo không chính xác thì vận hành hồ chứa sẽ luôn bị động", ông nói.

Ở góc độ phối hợp liên hồ, ông chỉ ra tổng dung tích của hơn 7.000 hồ thủy lợi cả nước chỉ khoảng 15,5 tỷ m³, nhỏ hơn nhiều so với dung tích các hồ thủy điện lớn. Vì vậy, vai trò tham gia tích cực hơn của thủy điện trong nhiệm vụ phòng chống lũ có thể nâng đáng kể hiệu quả bảo vệ hạ du, nhất là những trận mưa "lịch sử".

Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi nhấn mạnh hồ chứa hiện nay phải được nhìn nhận như công trình đa mục tiêu vừa giữ an toàn công trình và hạ du, vừa cung cấp nước sản xuất, sinh hoạt, vừa phục vụ phát điện.

Vận hành hồ chứa trước câu hỏi: Có nên hạ mực nước hồ để đón lũ?- Ảnh 4.

Trước bối cảnh mưa lũ ngày càng cực đoan, sự phối hợp chặt chẽ giữa thủy lợi và thủy điện, cùng việc ứng dụng công nghệ mới và dữ liệu hiện đại, sẽ là nền tảng để bảo đảm an toàn hạ du và phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.

"Không thể quản lý hồ theo từng ngành riêng rẽ. Vận hành hồ trên sông Cầu tác động đến sông Thương; điều tiết trên sông Đà lại ảnh hưởng đến đồng bằng sông Hồng. Cần tiếp cận theo toàn hệ thống sông", ông dẫn chứng.

Về định hướng sắp tới, ông cho rằng ngành thủy lợi phải cập nhật lại dữ liệu mưa lũ, thông số thiết kế và tiêu chuẩn an toàn đập cho phù hợp với các giá trị cực đoan mới. Chuyển đổi số không chỉ là số hóa dữ liệu mà phải giải quyết được các bài toán thực tế như dự báo lũ, tính toán dung tích phòng lũ và hỗ trợ ra quyết định thời gian thực. Bộ Nông nghiệp và Môi trường cũng đang tiếp thu đề xuất của nhiều địa phương, trong đó có kiến nghị của Thái Nguyên về điều chỉnh mực nước dâng bình thường để tăng dung tích phòng lũ.

Khép lại, ông Phong khẳng định: "Sự phối hợp chặt chẽ giữa thủy lợi, thủy điện, cùng công nghệ mới và dữ liệu hiện đại, sẽ là nền tảng bảo đảm an toàn hạ du và phục vụ phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh khí hậu ngày càng cực đoan".

Cảm ơn bạn đã quan tâm đến nội dung trên. Hãy tặng sao để tiếp thêm động lực cho tác giả có những bài viết hay hơn nữa.
Đã tặng: 0 star
Tặng sao cho tác giả
Hữu ích
5 star
Hấp dẫn
10 star
Đặc sắc
15 star
Tuyệt vời
20 star

Bạn cần đăng nhập để thực hiện chức năng này!

Bình luận không đăng nhập

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.