Cần rà soát tổng thể để có một khuôn khổ pháp lý vững chắc
Chiều 8/11, Quốc hội tiếp tục thảo luận tại nghị trường về tình hình kinh tế-xã hội và ngân sách nhà nước, các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19. Cho ý kiến về các vấn đề này, nhiều đại biểu quan tâm đến chính sách thu ngân sách...
Đề cập đến chính sách thu ngân sách, ĐBQH Vũ Thị Lưu Mai (Đoàn Hà Nội) cho biết, trong Báo cáo của Chính phủ có đề ra giải pháp hạn chế tối đa việc lồng ghép các chính sách xã hội trong các chính sách thuế. Điều đó, đồng nghĩa với việc trong 3 năm tới đây sẽ hạn chế tối đa việc miễn, giảm thuế.
Nữ đại biểu này kiến nghị cần hết sức cân nhắc giải pháp trên với hai lý do. Một là, việc bảo đảm tính trung lập của thuế là cần thiết. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay thì điều đó là khó khả thi, kể cả khi chúng ta khống chế được dịch bệnh thì những hệ quả cũng còn kéo dài trong những năm tiếp theo.
Hai là, căn cứ vào tình hình thực tế 3 năm qua (2019 - 2021), trong chính sách tài khóa, việc miễn, giảm thuế đã được áp dụng liên tục như một giải pháp hữu hiệu và trong năm 2022 rất nhiều ý kiến đề xuất tiếp tục áp dụng. Nếu như tới đây Quốc hội ban hành gói kích thích phục hồi kinh tế thì dự kiến cũng có thể sẽ có những chính sách miễn, giảm thuế.
“Chính vì vậy, tôi cho rằng tại thời điểm hiện nay nên theo đuổi một chính sách khoan sức dân, nuôi dưỡng nguồn thu thông qua các biện pháp hỗ trợ và phát triển sản xuất kinh doanh. Điều đó sẽ là cần thiết và hợp lý hơn một chính sách tận thu", đại biểu Vũ Thị Lưu Mai nói.
Đại biểu Mai cũng đóng góp về vấn đề thể chế và pháp luật trong bối cảnh dịch bệnh.
"Hơn bao giờ hết trong dịch bệnh chúng ta nhìn thấy rõ nhất những thiếu hụt của hệ thống pháp luật liên quan. Có những tình huống không có căn cứ pháp lý để xử lý, dẫn đến áp dụng tùy tiện, thiếu thống nhất. Tôi nghĩ rằng, cần rà soát tổng thể để có một khuôn khổ pháp lý vững chắc, ổn định đặc biệt là mang tính dự báo cao trong những năm tiếp theo", đại biểu Mai nói.
Về định hướng trong thời gian tới, đại biểu Vũ Thị Lưu Mai kiến nghị, đối với Luật Các tổ chức tín dụng, nếu như tới đây Quốc hội thông qua kế hoạch kích thích phát triển, phục hồi kinh tế với những biện pháp tiền tệ mạnh mẽ thì việc sửa đổi Luật Các tổ chức tín dụng là cần thiết.
Cùng với đó, cần sớm ban hành luật về xử lý nợ xấu. Hiện nay, tỷ lệ nợ xấu là khá cao, đến tháng 8 đã là 7,69% và nếu như dịch bệnh kéo dài thì con số này còn cao hơn. Chúng ta không thể lấy Nghị quyết 42 là Nghị quyết thí điểm để áp dụng ổn định lâu dài.
Đại biểu đoàn Hà Nội cũng đề nghị cần rà soát, ban hành những quy định mang tính thống nhất về thẩm quyền ban hành các biện pháp chống dịch để kịp thời hạn chế tình trạng thiếu thống nhất trong xử lý giữa các địa phương như thời gian qua. Tạo lập một khuôn khổ pháp lý ổn định, vững chắc để huy động sức mạnh của hệ thống y tế tư nhân vào công cuộc phòng, chống dịch; khắc phục những thiếu hụt, hạn chế của hệ thống y tế công lập.
"Tôi rất mong Chính phủ sớm ban hành Nghị quyết điều chỉnh chế độ, chính sách cho những người đang ở tuyến đầu phòng, chống dịch. Đó là lực lượng y sĩ, bác sĩ, quân đội, công an - những người đang phải đối mặt với nguy hiểm để giành giật sự sống và bảo vệ cuộc sống bình yên cho chúng ta", đại biểu Lưu Mai bày tỏ.
Kinh tế đã “rơi thẳng đứng”
Phát biểu thảo luận, ĐBQH Hoàng Văn Cường (Đoàn Hà Nội) bày tỏ, qua 4 tháng cách ly nghiêm ngặt để phòng, chống dịch, kinh tế nước ta đã “rơi thẳng đứng” từ mức tăng trưởng 6,61% trong quý II xuống âm 6,17% trong quý III; hàng chục nghìn doanh nghiệp phải đóng cửa sau mỗi tháng và hàng nghìn người mất việc làm phải rời bỏ về quê hương. Điều đó cho thấy, sức chống chịu của nền kinh tế rất yếu, tiềm lực của các doanh nghiệp đang bị suy kiệt.
Để kinh tế trong nước không bị lỡ nhịp với đà phục hồi của nền kinh tế thế giới, đại biểu Cường cho biết, các doanh nghiệp không chỉ cần thêm nguồn lực để phục hồi trở lại mà còn phải vượt lên, đặt chân vào khâu sản xuất có giá trị cao trong bối cảnh thế giới đang phân bố lại chuỗi cung ứng. Muốn vậy, các doanh nghiệp và nền kinh tế phải được tăng cường thêm các nguồn lực đầu tư theo 2 hướng chính:
Thứ nhất, cần có chính sách cấp bù lãi suất để các doanh nghiệp được vay vốn với mức lãi suất tương đương tỷ lệ lạm phát. Vì hoạt động kinh doanh sau đại dịch còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, mức lợi nhuận khó để bù đắp được các chi phí lãi suất vay cao như thị trường; trong khi các tổ chức tín dụng đang phải duy trì mức lãi suất để bảo đảm kinh doanh. Đồng thời, phải tăng cường trích lập các quỹ dự phòng rủi ro trong bối cảnh nợ xấu đang tiềm ẩn gia tăng.
"Nếu ngân sách dành ra khoảng 30.000 - 40.000 tỷ đồng để cấp bù thì sẽ có được khoảng 1 triệu tỷ đồng tiền vốn lãi suất thấp để giúp cho các doanh nghiệp phục hồi. Kèm theo đó, phải có cơ chế kiểm soát để tất cả các doanh nghiệp có nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh đều phải được tiếp cận nguồn vốn vay giá rẻ. Không để tiền vay ngân hàng chạy vòng quanh trở thành tiền gửi để kiếm lợi từ chênh lệch lãi suất và không để tiền vốn giá rẻ sẽ đổ vào các lĩnh vực đầu cơ tài sản như bất động sản hoặc chứng khoán", đại biểu Hoàng Văn Cường nêu.
Thứ hai, bên cạnh giải pháp kích cầu truyền thống là đẩy mạnh các hoạt động đầu tư công, theo đại biểu Cường, cần có các giải pháp mới mang tính khác biệt, đó là đặt hàng để các doanh nghiệp trong nước đầu tư phát triển các sản phẩm ưu tiên tạo nên những đột phá trong phát triển.
Đại biểu Cường cho biết, có ba lĩnh vực cần ưu tiên đặt hàng, gồm: đường sắt; kinh tế biển; và hạ tầng công nghệ số của riêng nước ta để đi trước trong chuyển đổi số, chủ động kiểm soát, bảo đảm an toàn cho tài sản số quốc gia.
Thiếu lao động sau dịch Covid-19
Đại biểu Đàng Thị Mỹ Hương (Đoàn Ninh Thuận) cho rằng đang có tình trạng thiếu lao động sau dịch Covid-19, đặc biệt là thất nghiệp ở địa bàn người lao động di cư đến. Đại biểu đề xuất điều tra, nắm bắt mong muốn của người lao động để có hỗ trợ cần thiết về nhà ở, việc làm, an sinh… Theo đại biểu Hương, về lâu dài cần bố trí lại lao động trong nền kinh tế, về các khu vực lân cận. Nữ đại biểu này cũng đề xuất sớm ban hành quyết sách để cụ thể hóa Nghị quyết 55 của Bộ Chính trị về định hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Đồng thời, đề nghị Chính phủ có biện pháp tháo gỡ mang tính đặc thù cho các địa phương khó khăn về điều kiện tự nhiên, điển hình như tỉnh Ninh Thuận.