Theo thống kê của Tổng Cục Hải quan, tháng 11/2023, Việt Nam xuất khẩu 253.315 tấn cao su, trị giá 348,43 triệu USD, tăng 16,1% về lượng và tăng 18,6% về trị giá so với tháng 10/2023. So với cùng kỳ năm 2022, lượng xuất khẩu cao su tháng 11 giảm 0,1% nhưng trị giá lại tăng 1,3%.
Giá xuất khẩu bình quân tháng 11/2023 ước tính đạt 1.370 USD/tấn, tăng 1,8% so với tháng 10/2023 và tăng 1% so với tháng 11/2022. Mức giá này đã có sự khởi sắc tương đối tích cực nếu so với 8 tháng đầu năm 2023, khi giá xuất khẩu cao su của Việt Nam trung bình chỉ đạt 1.348 USD/tấn, mức thấp nhất kể từ năm 2019.
Lũy kế 11 tháng năm 2023, xuất khẩu cao su đạt trên 1,87 triệu tấn, trị giá 2,51 tỷ USD, lần lượt tăng 0,01% về lượng và giảm 14,7% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022.
Về thị trường, trong số các thị trường xuất khẩu cao su của Việt Nam, Trung Quốc và Ấn Độ có tổng lượng xuất khẩu cao su trên 100.000 tấn và trị giá trên 100 triệu USD.
Trong đó, Trung Quốc là thị trường xuất khẩu lớn nhất với 1,48 triệu tấn, đạt kim ngạch 1,96 tỷ USD, tương ứng chiếm 79% về lượng và 78% về trị giá xuất khẩu cao su của Việt Nam trong 11 tháng đầu năm 2023. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch xuất khẩu cao su sang Trung Quốc giảm 5,8%, tương ứng giảm 121 triệu USD.
Việt Nam xuất khẩu 100.068 tấn cao su sang Ấn Độ với 138,2 triệu USD, giảm 29% về trị giá so với cùng kỳ năm trước.
Trước đó, xuất khẩu cao su năm 2022 lập kỷ lục đạt hơn 2,1 triệu tấn và thu về hơn 3,3 tỷ USD. Cũng trong năm 2022, Trung Quốc tiếp tục là thị trường đứng đầu về tiêu thụ cao su của Việt Nam, chiếm 74,62% tổng lượng cao su xuất khẩu của cả nước, với 1,6 triệu tấn, trị giá 2,38 tỷ USD, tăng 14,6% về lượng và tăng 4,3% về trị giá so với năm 2021; giá xuất khẩu bình quân tới thị trường này đạt 1.490 USD/tấn, giảm 9% so với năm 2021.
Theo số liệu mới nhất của Tổng cục Hải quan, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa trong tháng 11 ước đạt 60,88 tỷ USD, giảm 1,4% so với tháng trước và tăng 5,9% so với cùng kỳ năm trước.
Về xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 11/2023 ước đạt 31,08 tỷ USD, giảm 3,6% so với tháng trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 8,49 tỷ USD, giảm 2,4%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 22,59 tỷ USD, giảm 4,1%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 11 tăng 6,7%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 13,5%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) tăng 4,4%.
Xét theo tỉnh, thành phố, báo cáo của Tổng cục Hải quan cho biết, tính riêng trong tháng 11/2023, 5 địa phương có kim ngạch xuất khẩu cao nhất cả nước lần lượt là Tp.HCM (3,62 tỷ USD), Bắc Ninh (3,4 tỷ USD), Hải Phòng (2,9 tỷ USD), Bình Dương (2,6 tỷ USD) và Bắc Giang (2,3 tỷ USD).
Lũy kế 11 tháng đầu năm 2023, Tp.HCM là địa phương có kim ngạch xuất khẩu cao nhất cả nước, với kim ngạch xuất khẩu đạt 38,5 tỷ USD. Đứng thứ hai là Bắc Ninh, với kim ngạch xuất khẩu 11 tháng đạt 36,4 tỷ USD. Theo sau là Bình Dương, Thái Nguyên và Hải Phòng, với kim ngạch xuất khẩu lần lượt đạt 27,7 tỷ USD, 24 tỷ USD và 23,93 tỷ USD.
Về nhập khẩu, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng 11/2023 ước đạt 29,8 tỷ USD, tăng 1% so với tháng trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 10,6 tỷ USD, giảm 0,4%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 19,2 tỷ USD, tăng 1,7%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng Mười Một tăng 5,1%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 4,2%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 5,6%.
Xét theo tỉnh, thành phố, báo cáo của Tổng cục Hải quan cho biết, tính riêng trong tháng 11/2023, 5 địa phương có kim ngạch nhập khẩu cao nhất cả nước lần lượt là Tp.HCM (4,9 tỷ USD), Hà Nội (3,36 tỷ USD), Bắc Ninh (3,12 tỷ USD), Hải Phòng (2,4 tỷ USD) và Bình Dương (1,98 tỷ USD).
Lũy kế 11 tháng đầu năm 2023, Tp.HCM là địa phương có kim ngạch nhập khẩu cao nhất cả nước, với kim ngạch nhập khẩu đạt 50,4 tỷ USD. Đứng thứ hai là Hà Nội, với kim ngạch xuất khẩu 11 tháng đạt 33,9 tỷ USD. Theo sau là Bắc Ninh, Bình Dương và Bắc Giang, với kim ngạch xuất khẩu lần lượt đạt 30,4 tỷ USD, 19,98 tỷ USD và 18,4 tỷ USD.
Trúc Chi (t/h)