Chuyện tình nổi tiếng trong lao tù Côn Đảo

Chuyện tình nổi tiếng trong lao tù Côn Đảo

Thứ 6, 28/12/2012 | 00:00
0
Cách đây gần 35 năm, có một câu chuyện tình trong nhà lao Côn Đảo chẳng khác gì câu chuyện "Ngưu Lang Chức Nữ" ngày xưa. Ngày đó những tù nhân chính trị ở Côn Đảo, dù là chịu tra tấn cực hình, nhưng ngày nào họ cũng truyền tai nhau về một mối tình ấm áp, nồng thắm, cảm động trong lao tù.

Mối tình ấy được bí mật truyền từ người này qua người khác, như tiếp thêm sức mạnh giúp người chiến sỹ cách mạng luôn giữ vững được ý chí vững vàng.

Xã hội - Chuyện tình nổi tiếng trong lao tù Côn Đảo

Ông Bảy và bà Kiếm (từ trái sang phải) - Ảnh do gia đình cung cấp

Tiếng dân ca ở chốn "địa ngục trần gian"

Đó là câu chuyện tình của đôi vợ chồng cựu tù chính trị Côn Đảo Trương Văn Bảy và Nguyễn Thị Kiếm hiện đang sinh sống ở ấp Thọ Chung, xã Xuân Thọ, huyện Xuân Lộc (Đồng Nai). Ông Bảy hồi ức lại, hồi đó khi bị đày ra Côn đảo, ông bị nhốt ở trại giam số 6, vốn từng là chiến sĩ biệt động thuộc Bộ tư lệnh Miền, bị địch bắt trong lần trinh sát căn cứ Nước Trong vào cuối năm 1968.

Lúc bấy giờ, hầu hết tù nhân chính trị ở Côn Đảo đều trong tình trạng tàn phế, bệnh tật, cái chết đang đến dần với từng người sau bao nhiêu năm bị tra tấn đầy đọa trong các chuồng biệt giam. Những ngày bị biệt giam, ông nhớ nhất là giọng hát của một cô gái, đúng hơn là một nữ tù chính trị ở cách đó không xa. Mặc dù ông Bảy chưa biết mặt người con gái hát trong nhà lao ấy nhưng ông cảm nhận được sự gần gũi, thân thương. Đặc biệt là giọng hát thiêng liêng hơn trong lao tù thì phải, nó như tiếp thêm sức mạnh cho ông. Mỗi lần ông Bảy lại được về phòng giam số 6, ở đó hàng đêm ông lại mơ về cô gái hát dân ca trong tù được mệnh danh là địa ngục trần gian.

Cô gái vượt lên gông cùm và đòn độc tra tấn ấy chính là Nguyễn Thị Kiếm, cũng là một tù nhân chính trị đang bị giam trại số 4, cách phòng gian số 6 của ông Bảy không xa. Nhưng thời đó, để nhìn thấy mặt cô nữ chiến sỹ hay hát ấy không phải là dễ. Nên mãi sau này ông bảy mới biết bà Kiếm làm cách mạng từ khá sớm, từ năm 1964, khi vừa mới 13 tuổi. Gia đình bà Kiếm vốn là cơ sở cách mạng nên từ nhỏ đã được giao nhiệm vụ theo dõi hoạt động của tụi biệt khu quân ở đồn Bảo Chánh ngay đầu làng. Đầu năm 1969, sau 4 năm làm giao liên, Kiếm trở thành đội viên đội du kích xã Xuân Thọ, tham gia tập kích đồn Bảo Chánh. Trận đánh không thành, Kiếm bị địch bắt rồi bị đày ra nhà tù Côn Đảo trong trại giam số 4...

Là nữ nhi, cũng như nhiều phụ nữ Việt Nam, trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ giành độc lập dân tộc, rất nhiều những người phụ nữ ở miền Nam đã tham gia trên nhiều mặt trận, chịu đựng gian khổ, mất mát, hy sinh. Lúc đó, Kiếm còn rất trẻ nhưng lại bị giam cầm ở địa ngục trần gian, là một hệ thống chuồng cọp làm bằng hình thức tra tấn ngày càng trở nên tàn bạo hơn. Để quên đi nỗi đau thân xác và cũng là nâng cao tinh thần đấu tranh, các chị tự tổ chức văn nghệ, nhảy múa, hát ca, bất chấp sự cấm đoán, đàn áp của bọn cai ngục... Nguyễn Thị Kiếm có giọng ca mượt mà, truyền cảm, là hạt nhân của phong trào văn nghệ ở trại giam số 4. Trong hoàn cảnh lao tù, tiếng hát của Kiếm trở thành món ăn tinh thần làm ấm lòng những người đồng chí đồng đội.

Sống nhờ câu dân ca em hát

Chính từ trong phòng giam số 4, bao nhiêu người tù đã nghe được giọng hát như có ma lực của cô, để rồi họ kiên cường hơn với những thủ đoạn tra tấn cực hình Một trong số người mê giọng hát ấy thì ông Bảy là người si mê nhất. Trong ngục tù, ông ước được giáp mặt cô một lần rồi có chết cũng thỏa nguyện. Một lần vì vụ anh em tù nhân tuyệt thực đấu tranh nên bọn cai ngục cho là cứng đầu cứng cổ như ông Bảy phải chịu cực hình bằng thủ đoạn tra tấn phơi nắng.

Cái nắng giữa sân gạch Côn Đảo như làm quắt lại những thân hình gầy giờ xương, lại bị bỏ đói nhiều ngày, nên ông Bảy kiệt sức, ông và nhiều anh em khác bị chúng quăng vào phòng nằm thoi thóp chờ chết. Bỗng, từ trong đêm hoang vu chết chóc ấy, ông Bảy ngóc đầu dậy, hình như có tiếng hát từ phòng số 4. Anh nhổm dậy nói: "Anh em ơi, cô ấy lại hát rồi! Đồng chí ơi, hát nữa đi, to lên cho chúng tôi nghe".

Không biết, ông Bảy gọi, ở phòng số 4 các cô có nghe thấy không nhưng giọng hát lại lớn hơn, đều hơn. Giọng hát của Kiếm ngân xa khắp ngục tù chết chóc. Câu hát da diết, trĩu nặng tâm tình, như nhắn gửi, động viên, tiếp thêm sức mạnh và nghị lực giúp anh gắng gỏi vượt qua thời khắc hiểm nghèo. Nhiều anh em tù nhân đang mơ màng nghe lời hát, từ trong tiềm thức, khát vọng sống trỗi dậy, những đôi mắt mờ đục từ từ mở mắt và tự nhủ lòng mình: "Phải sống, nhất định phải sống".

Chẳng biết tự khi nào, ông lại khát khao được gặp mặt người ấy. Vậy mà, suốt mấy năm trời, dù biết chỉ cách nhau một khoảng rất gần nhưng ông Bảy vẫn không một lần gặp gỡ. Mong ước là vậy nhưng chốn lao tù biết làm sao được. Mà lúc đó có gặp cũng chẳng nhận ra nhau bởi lâu nay ông chỉ nghe tiếng hát thôi. Giàn đồng ca đêm đó khiến kẻ thù thực sự cay cú. Chúng cho người lục soát, bắt bớ, đánh đập tất cả mọi người trong phòng giam. Riêng phòng giam số 4 bị chúng tra khảo. Chúng đánh đập bắt phải khai ra người đứng đầu bắt nhịp. Một tháng liền tra khảo không đem lại kết quả, chúng vẫn không làm giọng hát lặng đi.

Tìm nhau trong niềm vui vỡ òa

Đêm 30/4/1975, khi nhận được tin miền Nam hoàn toàn giải phóng, tù nhân ở trại giam số 7 phá cửa thoát ra, mở khóa cho các trại giam khác đồng loạt nổi dậy làm chủ toàn bộ Côn Đảo, sung sướng chờ đón quân ta ra tiếp quản. Để ổn định tình hình trật tự, đề phòng tình huống bọn địch quay lại, các chi bộ nhà tù thống nhất chỉ đạo đào công sự sẵn sàng chiến đấu. ông Bảy rất muốn đi tìm bà Kiếm để thổ lộ tình cảm nhưng bận nhiều việc, hơn nữa mới được giải thoát, tình hình còn hỗn độn nên ông vẫn chưa thấy đó là thời cơ tìm Kiếm. Mãi đến sáng 2/5, cả Côn Đảo bắt được liên lạc với đất liền và được biết sắp có lực lượng ra cứu trợ nên anh em tích cực chuẩn bị một số tiết mục văn nghệ chào mừng.

Về phần ông Bảy, ngay chiều hôm đó, khi được thông báo chuẩn bị tập hợp về sân trung tâm xem biểu diễn văn nghệ chào mừng bộ đội ra tiếp quản, ông đã hồi hộp mong chờ và hy vọng sẽ gặp được người có giọng hát ấy. ông Bảy cố nhích lên ngồi ở phía trên. Thế nhưng, đã mấy tiết mục trôi qua vẫn không thấy giọng ca ấy xuất hiện làm cho ông càng hồi hộp và lo lắng. Nhưng rồi, đến tiết mục đơn ca cuối cùng, niềm hy vọng của ông Bảy bừng dậy. Chao ôi, đúng bài hát ấy, giọng ca ấy, ông Bảy mừng vui tưởng như ngộp thở, bao vấn vương, nhung nhớ vỡ òa.

Ông Bảy giàn giụa nước mắt như gặp lại người thân. Nhưng mãi đến sáng hôm sau, khi cùng mọi người hớn hở đi tìm đồng hương thì anh chàng Bảy gầy gò đêm qua đến gặp Kiếm và bắt chuyện. Hóa ra cả hai cùng quê Long Khánh.

Đến ngày trở về đất liền, duyên phận thế nào họ lại được phân cùng ở trong Khu an dưỡng Bà Rịa. Từ đó, tình yêu đến với họ như một lẽ tự nhiên. Giữa năm 1976, họ tổ chức cưới. Phát biểu trong lễ cưới, ông Bảy xúc động nói: "Cảm ơn vợ tôi và những anh em đồng chí, những người đồng đội đã cùng vào sinh ra tử nơi mảnh đất mà núi được pha bằng máu và đất thì năm, sáu lớp xương người, nhờ có họ mà tôi mới sống được đến ngày hôm nay. Rất tiếc là nhiều đồng chí ở xa, không đến chung vui được với chúng tôi".

Sau đó họ đã cùng nhau vượt qua không ít gian nan trong cuộc sống. Có thời điểm ông bà phải đi làm thuê, ở nhờ, bán vé số mưu sinh để nuôi 4 người con ăn học. Thêm vào đó là những vết thương từ những trận đòn tra tấn trong tù, mỗi khi trái gió trở trời toàn thân buốt nhói. Thế nhưng tình yêu đã giúp họ vượt qua tất cả. "Tôi là người may mắn, vì không như Ngưu Lang và Chức Nữ, phải có cầu ô Thước, rồi mỗi năm mới gặp nhau một lần. Chúng tôi đã được ở bên nhau, chăm sóc cho nhau, thế là đã toại nguyện lắm rồi". Và những lúc nhớ về những kỷ niệm xưa, ông Bảy vẫn thường bảo bà Kiếm hát cho mình nghe những lời ca thuở ấy. Những lúc như thế, ông Bảy lại ngân theo giọng bà.

Thành Văn