Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do Bộ luật hình sự (BLHS) quy định mà khi hết thời hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự của BLHS 2015 được quy định tại Điều 27, Điều 28. Theo đó, thời hiệu để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các loại tội phạm được giữ nguyên. Cụ thể: 05 năm đối với tội phạm ít nghiêm trọng; 10 năm đối với tội phạm nghiêm trọng; 15 năm đối với tội phạm rất nghiêm trọng; 20 năm đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Tội tham ô tài sản hoặc tội nhận hối lộ nếu thuộc trường hợp rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng sẽ không được áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự (ảnh minh họa).
Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được tính từ ngày tội phạm được thực hiện. Nếu trong thời hạn trên người phạm tội lại thực hiện hành vi phạm tội mới mà Bộ luật này quy định mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy trên 01 năm tù, thì thời hiệu đối với tội cũ được tính lại kể từ ngày thực hiện hành vi phạm tội mới.
Nếu trong thời hạn trên người phạm tội cố tình trốn tránh và đã có quyết định truy nã, thì thời hiệu tính lại kể từ khi người đó ra đầu thú hoặc bị bắt giữ.
Điểm mới liên quan đến thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là theo quy định tại BLHS năm 2015, ngoài việc vẫn giữ nguyên quy định không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia quy định tại Chương XIII và các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh quy định tại Chương XXVI, khoản 3 Điều 28 còn bổ sung thêm hai tội khác vào các trường hợp không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự: Tội tham ô tài sản theo khoản 3 và khoản 4 Điều 353; Tội nhận hối lộ theo khoản 3 và khoản 4 Điều 354.
Nói cách khác, người phạm tội tham ô tài sản h