Theo truyền thống xưa, hầu hết từ ngày 29- 30 Tết, các gia đình Việt đã làm lễ cúng mời Tổ tiên về dự 3 ngày Tết. Trong những ngày Tết, các bậc gia thần, tổ tiên luôn ngự trên bàn thờ. Do vậy, đèn hương không bao giờ được tắt, các đồ dâng cúng như hoa quả, mâm ngũ quả và bánh kẹo phải đợi đến “ngày hóa vàng” mới được hạ xuống.
Đến ngày mùng 3 Tết hoặc ngày khai hạ mồng bảy Tết, là ngày cuối cùng, tiệc xuân đã mãn, các gia đình lại cáo lễ để tiễn đưa Tổ tiên trở về âm cảnh.
Mâm cỗ mặn hoặc chay cũng đầy đủ các món đặc trưng của mâm cúng ngày Tết như món luộc, xào, canh, miến, rượu. Ảnh minh họa.
Theo tiến sĩ Nguyễn Văn Vịnh - Phó Viện trưởng Viện Công nghệ giáo dục đã từng chia sẻ trên Eva thì, bữa cơm kết thúc dịp năm mới vô cùng quan trọng đối với người Việt. Bởi thế, mâm cơm cúng hóa vàng cũng phải đầy đủ như mâm cỗ chính của ngày Tết.
Giáo sư Nguyễn Văn Vịnh cũng cho hay, mâm cỗ hóa vàng thường được gia chủ cúng vào ngày mùng 3 Tết. Đây chính là bữa cỗ mặn cuối cùng có tính nghi lễ thờ cúng Tổ tiên.
Trong mâm cơm, phải có đầy đủ gà, các món luộc, xào, canh, miến, rượu và mâm ngũ quả, bánh kẹo, cau trầu. Đặc biệt, vàng mã, tiền âm phải được chuẩn bị chu đáo để Tổ tiên có đủ lệ phí về trời.
Cách chuẩn bị lễ cúng hóa vàng cũng giống như lễ cúng giá tiên gồm: Mâm ngũ quả, hương hoa, giấy tiền vàng mã, đèn nến, trầu cau, rượu, trà, bánh chưng (hoặc bánh tét).
Mâm cỗ mặn hoặc chay cũng đầy đủ các món đặc trưng của mâm cúng ngày Tết như món luộc, xào, canh, miến, rượu. Nếu cúng mặn thì mâm cơm không thể thiếu con gà trống.
Tiến sĩ cho biết thêm, sau khi cúng lễ, gia chủ sẽ tiến hàng đốt phần tiền, vàng. Phần tiến vàng của gia thần sẽ được hóa trước, tiền vàng và đồ dùng của Tổ tiên sẽ hóa sau.
Từ xa xưa, tại nơ