10 giờ sáng. Bến xe buýt đã vãng khách. Cái nắng chói chang khiến tôi muốn vã mồ hôi. Chiếc ba lô trở nên nặng nề hơn bao giờ hết. Hôm nay, ông giám đốc nhìn vào thân hình gầy nhom của tôi và lắc đầu. Tôi lại trượt vòng phỏng vấn. Tôi xếp gọn bì hồ sơ, lặng lẽ ra về.
Cuối cùng, tôi đã hiểu cảm giác của một con mèo khi bị bỏ đói rút cuộc là thế nào. Vài bác khuân phu đâu cũng trạc tuổi ba tôi nặng nhọc lê từng bước. Mấy cái bao tải như anh chàng lười chỉ muốn nằm vật ra, khó bảo. Thi thoảng đi ngang qua, họ lại nhìn tôi bằng ánh mắt ái ngại. Tôi liu diu mắt, ủ dột đến độ chẳng muốn mở lời…
Tôi bắt đầu nhớ về khoảng thời gian của mười lăm năm về trước. Khi mà cuộc sống của những con người nơi quê tôi nghèo đến mức chẳng có gạo mà ăn. Còn nhớ lúc tôi lên bảy, ruộng lúa khô hanh trông chờ vào giọt nước trời. Xong mùa, nhà nào cố vét hết thảy cũng chỉ đựng đủ vài ba thúng con con.
Ba mẹ tôi, những người sinh ra vào thời buổi chiến tranh khói lửa, không được học hành đến nơi đến chốn. Với họ, cái nghề nuôi sống bản thân cũng đã không, còn thêm bao nhiêu thứ đèo bồng. Thời buổi đó, ngay cả trong suy nghĩ kiếm được một công việc qua ngày đã là khó, huống gì nói đến công việc tốt. Hầu như cả xóm tôi, từ con nít, thanh niên đến người già, ai cũng chỉ biết quanh quẩn trong xóm, sống nhờ vào mấy củ sắn củ khoai.
Ba tôi nhàn đến mức ngày ngày chỉ biết cõng tôi trên lưng, mua từng đồng kẹo ú cho tôi ăn. Cái nghèo khổ bám víu mãi khiến ba trăn trở mỗi đêm. Giấc mơ của những người thôn quê như ba tôi dung dị đến nghèo nàn. Ba thường nói chỉ cần đủ ăn no ba bữa, còn lại lo cho chị em tôi đi học. Đối với ba, việc học của chị em tôi chưa bao giờ được phép quan trọng hơn bất cứ điều gì.
Ngày tôi ngây ngô vào lớp một, mẹ tôi sinh em là lúc ba bắt đầu nghĩ đến điều đó. Ba chạy vạy khắp nơi chỉ mong tìm được một công việc,