Chuyện về bộ xương

Chuyện về bộ xương "khủng" giữa tường thành Đàn tế Nam Giao

Thứ 5, 27/12/2012 | 23:46
0
Trong quá trình tôn tạo, phục dựng di tích Đàn tế Nam Giao thuộc Di sản Văn hóa thế giới Thành Nhà Hồ (Vĩnh Lộc, Thanh Hóa), các nhà khảo cổ học vừa phát hiện một bộ xương trâu còn tương đối nguyên vẹn nằm giữa bức tường...

Bí mật bộ xương "khủng"

Đàn tế Nam Giao nghĩa là đàn tế Trời lập ở phía Nam kinh đô. Theo điển lễ xưa, tế Trời là để cầu cho quốc gia trường tồn, quốc thái dân an, muôn vật phồn thịnh. Tế Nam Giao cũng chính là quốc lễ quan trọng nhất khẳng định tính chính đáng của Vương triều - Quốc gia - Dân tộc do Hoàng đế đích thân làm chủ lễ.

Xã hội - Chuyện về bộ xương 'khủng' giữa tường thành Đàn tế Nam Giao

Giếng Vua trong khu di tích Đàn tế Nam Giao.

Dẫn PV Người đưa tin đi xem thực tế quá trình khai quật, tôn tạo di tích, TS Đỗ Quang Trọng - giám đốc Trung tâm Bảo tồn di sản Thành Nhà Hồ, cho biết: Bộ xương nằm gọn trong huyệt được xây bằng đá dưới lòng tường lớn nhất của Đàn tế Nam Giao, nằm ở phía trên cùng. Đây là bức tường bảo vệ Đàn tế. Được biết, trong quá trình khai quật Đàn tế, tháng 4/2012, đoàn khảo sát đã phát hiện bộ xương rất to, gần như còn nguyên vẹn và nằm chính giữa bức tường thành của Đàn tế. Bộ xương này ở tư thế nằm ngửa, được đặt trong bia mộ quây bằng đá.

Qua nghiên cứu, các nhà khảo cổ học thống nhất nhận định: Đây là bộ xương trâu. Nhưng câu hỏi đặt ra là vì sao lại là con trâu? Và vì sao nó lại được táng rất nghiêm cẩn ở giữa bức tường? Qua trao đổi với các nhà khoa học, chúng tôi thấy rằng, với quan niệm "tam sinh" (ba thứ cúng thần là trâu - dê - ngựa) đã ăn sâu trong lòng người Việt nên Hồ Quý Ly cho cúng trâu để tế thần linh. Cùng đó, dân nước Việt từ xưa đã xem trâu là bạn, thậm chí "con trâu là đầu cơ nghiệp". Đó cũng là lý do Hồ Quý Ly cho cúng tế thần linh bằng trâu, với mong muốn dân được no đủ, mùa vụ bội thu.

Tại di tích này còn có hai điều khiến các nhà khảo cổ rất lấy làm thú vị. Thứ nhất, phía trên cùng của Đàn tế, người ta phát hiện hai hòn non bộ tự nhiên, là một phần của ngọn Núi Đốn, khá cân đối: Một bên có 7 ngọn và một bên có 8 ngọn. Điều này cho thấy, đây là vị trí phong thủy đắc địa và người xưa khi xây dựng Đàn tế đã tận dụng sự đăng đối của tự nhiên để phối cảnh.

Thứ hai, do các bức tường thành đã đổ hết, vì sao các nhà khoa học có thể xác định được chiều cao của Viên thành?. "Khi khai quật bức tường, chúng tôi thấy làm may mắn khi thấy một đoạn tường đổ xuống không hề bị lộn xộn mà theo từng lớp gần như nguyên vẹn. Trên cơ sở này, chúng tôi đã dựng lại, đo đếm và xác định được gần như chính xác chiều cao của Viên tường" - TS Trọng nói.

Đàn Nam Giao được xây dựng vào tháng 8/1402 trên núi Đốn Sơn (dân gian gọi là Núi Đún). Lễ tế Giao đầu tiên của triều Hồ được tổ chức cùng năm. Di tích Đàn tế nằm trong lòng hai đỉnh của ngọn núi này theo thế dựa vào tay ngai, lọt trong khu vực La thành (vòng ngoài) của Di tích Thành Nhà Hồ. Do địa thế sát chân núi, thoải dần về phía Nam nên khu vực Nam Giao quanh năm khô ráo. Các cuộc khai quật khảo cổ từ năm 2004 đã làm xuất lộ một Đàn tế có nền móng còn tương đối nguyên vẹn nhất trong số các đàn tế Nam Giao được biết đến ở Việt Nam.

TS Đỗ Quang Trọng nhớ lại, năm 2004, sau khi dâng hương xin Đức Vua về việc khai quật Đàn tế, như được linh ứng, đoàn khảo cổ thực hiện một hố khai quật chỉ 12m2 thì thật bất ngờ khi phát lộ cửa phía Đông của Đàn tế. Bởi trước đó, toàn khu này là vườn trồng keo lá tràm của người dân, bệnh viện và hàng loạt nhà ở của dân đã tồn tại nhiều năm trên mảnh đất này. Thậm chí, nhiều ngôi mộ táng của dân trong vùng, trong đó có cả mộ của trẻ sơ sinh, cũng đã được chôn cất ở đây từ lâu. Chính vì thế, khi phát lộ hố khai quật đầu tiên, các nhà khoa học đã nhanh chóng định hình khu vực Đàn tế để khai quật, không làm hỏng những gì còn lại.

Xã hội - Chuyện về bộ xương 'khủng' giữa tường thành Đàn tế Nam Giao (Hình 2).

Bộ xương trâu được phát lộ tại Đàn tế Nam Giao.

Bảo tồn thế nào?

Phần khảo cổ đã phát lộ cho thấy, di tích đã bị phá hoại nghiêm trọng, bởi các yếu tố như: Việc trồng cây keo tai tượng và các loại cây khác đã phá nền móng; việc xây dựng nhà ở của dân đã san bạt di tích, đào phá nền di tích và khai thác tối đa nguồn đá cổ để xây dựng, khiến trên 90% đá của di tích đã bị lấy mất; việc xây dựng lò nung vôi cạnh di tích và lấy đá di tích để nung vôi vừa phá hủy đá vừa phá hủy chân nền di tích; việc xây dựng đường xe trâu cũng phá hủy phần lớn Viên đàn và Thần đạo cùng hai Tam quan ở nền 2; việc xây dựng Bệnh viện Vĩnh Lộc đã san mất toàn bộ góc Tây Nam nền 5; việc đào ao của dân đã phá hủy toàn bộ góc Đông Nam ở nền 5...

Sau quá trình dài vừa khai quật vừa đi học hỏi công tác bảo tồn đàn tế và di tích ở các nước khác như Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc, các nhà khoa học đã chọn được hướng bảo tồn khả thi nhất. Lúc đầu, có ý kiến cho rằng, nên làm một khu nhà bạt rộng để che chắn gió mưa. Thế nhưng, phương án này bị bác bỏ, vì vừa tốn kém vừa thiếu thực tế, khả năng bị đổ do gió bão rất cao.

Cũng có phương án đưa ra là nên che bạt như ở một số di tích đã làm. Thế nhưng, phương án này cũng không nhận được sự đồng thuận cao. Cuối cùng, sau khi trực tiếp tham quan di tích khảo cổ kinh đô Asuka và Nara ở Nhật Bản, các nhà khoa học đã thống nhất dùng một loại giấy đặc biệt của Nhật. Theo đó, sau khi khai quật, từng phần sẽ được bao bọc loại giấy này, sau đó lấp đất lên trên để tôn tạo theo phác thảo hình khối ban đầu của Đàn tế, giúp chúng ta có thể mường tượng rõ nhất về tổng thể khu vực Đàn tế cách đây hơn 600 năm.

TS.Đỗ Quang Trọng cho biết thêm, hiện nay di tích đã được bảo tồn và thành hình hài cơ bản. Theo đó, tổng diện tích mặt bằng Đàn tế khoảng 30.000 m2; khối lượng đất đào đắp xây dựng nền Đàn ước khoảng 30.000m3. Di tích có cấu tạo 5 cấp cao dần lên (nền 1 cao nhất là 21,7m; nền 5 thấp nhất là 12m so với mực nước biển); các cấp nền được xây bó vỉa bằng đá, móng tường đàn được xây bằng các loại đá phiến và đá phấn có màu đỏ son và vàng nhạt; trên các nền Đàn còn lại dấu tích các công trình kiến trúc như đường Thần đạo, nền sân lát gạch, các vòng tường đàn, nền đàn thờ đa thần, Viên đàn, Thần trù, Thần khố, Trai cung, Giếng Vua, hệ thống cống thoát nước, đường đi, các cổng, cửa được bố trí rất đăng đối và khoa học...

TS.Tống Trung Tín (viện trưởng Viện khảo cổ) khẳng định, qua việc khai quật khảo cổ học tại di tích Đàn tế Nam Giao, kết hợp với đợt nghiên cứu bảo tồn cấp thiết năm 2012 đã làm rõ hầu hết cấu trúc mặt bằng tổng thể nửa phía Bắc của đàn tế. Qua đó, các nhà khảo cổ học đã làm rõ các đặc điểm chung của đàn tế Giao phương Đông, làm rõ những nét đặc sắc riêng của đàn tế Việt Nam.

Theo đó, mỗi một quốc gia này cũng chỉ có một Đàn tế Nam Giao. Ở Việt Nam, kinh đô Thăng Long thời Lý, Trần, Lê, kinh đô Tây Đô của triều Hồ, thành Hoàng đế của triều Nguyễn - Tây Sơn, kinh đô Huế triều Nguyễn, mỗi kinh đô đều có một Đàn tế Giao. Tuy nhiên, hiện nay chỉ có di tích Đàn tế Nam Giao Thành Nhà Hồ là còn mặt bằng tương đối nguyên vẹn cổ nhất trong lịch sử Đàn tế Giao của Việt Nam.

Đàn tế khẳng định sự tự tôn dân tộc

Việc lập và tế lễ ở Nam Giao không đơn thuần chỉ là việc thực hiện một loại nghi lễ quan trọng của một vương triều mà còn liên quan đến tính thần tự lực, tự cường quốc gia trong bối cảnh quốc tế đương thời. Rõ ràng, việc nhanh chóng tổ chức xây dựng đàn tế Nam Giao và việc Hoàng đế Hồ Hán Thương đích thân tế lễ ở Đàn Nam Giao là một biểu hiện tinh thần tự tôn dân tộc rất cao của vương triều Hồ hồi cuối thế kỷ 14 - đầu thế kỷ 15.

Đức Kế