Theo Bộ Hình triều Nguyễn, từ hồi quốc sơ (vua Gia Long lên ngôi hoàng đế vào năm 1802), Gia Long đã ra lệnh cấm tệ đánh bạc . Lệnh vua ban bố rằng kẻ nào mở sòng tụ tập nhau đánh bạc bị tố giác, bị bắt quả tang thì gia tài của chủ chứa đánh bạc bị kê biên sung vào công quỹ, riêng số tiền bắt được tại chiếu bạc và tiền riêng của những người cùng tham gia đánh bạc được trích ra mỗi người 10 quan để thưởng cho người cáo giác:
"Nếu người trong bọn cùng đánh bạc mà cáo giác ra cũng được thưởng như thế. Kẻ can phạm đều xử tội mỗi người bị đánh 100 roi, đưa ra làm phu phục dịch 3 năm… Người đứng mở nhà chứa bạc tuy không dự vào hạng người đánh bạc cũng xử cùng một tội như người đánh bạc, chỗ nhà đánh bạc ấy cũng sung vào Nhà nước".
Về lực lượng thực thi lệnh cấm của vua, Bộ Hình thời bấy giờ ghi rõ cho phép hương trưởng được quyền bắt dân chúng lẫn quan quân can phạm trị tội. Trường hợp dung túng, bao che nếu có người tố giác ra thì hương trưởng bị xử đánh 50 roi, bị bắt làm phu phục dịch 6 tháng, lại phải nộp 50 quan tiền để thưởng cho người cáo giác.
Như tệ ma túy, nhờ luật pháp nghiêm minh và vua tôi hết lòng nên tệ cờ bạc thời bấy giờ không phổ biến trong dân, chỉ là thú vui chơi của dân quý tộc.
Nhưng đến thời vua Đồng Khánh (1864-1889, lên ngôi vào năm 1885, tại vị được 3 năm, khi hoàng đế là vua Hàm Nghi thoát ly triều đình đi khu chống Pháp), tệ đánh bạc mà nhiều đời vua Nguyễn dốc sức dốc lòng bài trừ suýt được triều đình công nhận khi được các đại thần ở Bộ Hộ thông qua.
Nhưng gặp phải sự phản đối kịch liệt của đại thần Nguyễn Hữu Độ: "Năm Đồng Khánh thứ 3 (1888), mùa xuân, tháng Giêng, một người nước Thanh là Trần Quang Hanh đệ đơn lên Bộ Hộ xin được mở sòng bạc chịu nộp thuế tại Nghĩa An, Nam Nghĩa, Bình Phú thuộc phủ Thừa Thiên, Bộ Hộ đã bàn bạc đệ phiến xin cho phép thực hiện.
Trở lại chuyện phạt nặng và phạt nghiêm đám con cháu "bác thằng bần