Những gạch đầu dòng dù rất nhỏ về nữ thi sĩ tài hoa ấy cho đến nay vẫn tốn không ít giấy mực của người đời. Nó gây sự tò mò, khát khao khám phá và hơn hết là thỏa một niềm cảm phục với bà chúa thơ Nôm. Cái thanh, cái tục trong mỗi vần thơ của bà hòa quyện với nhau, vấn vít ra những điều phá cách say lòng người. Ai đọc thơ bà một lần thì vỗ đùi, hả hê như gọi đúng nhân tình thế thái, đặc biệt là thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa.
Nỗi truân chuyên trong cuộc đời người con gái tài sắc rồi cũng đi vào thơ nôm của “bà chúa” với những trúc trắc rất đời thường. “Chém cha cái kiếp lấy chồng chung/ Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng”… Ấy là thơ nhưng cũng là đời thực hiện hữu, mà lại là sự hiện hữu rất chân thật nên trải qua bao sóng gió của tư tưởng cũ hà khắc, thơ nôm của nữ sĩ Hồ Xuân Hương vẫn tìm được đúng chỗ đứng của mình sau bao thăng trầm lịch sử.
Thơ Hồ Xuân Hương, nhiều người thuộc, thuộc rồi đem vận vào đời thường mà răn dạy cháu con, mà tự răn mình, thuộc để tìm ý tứ nương tựa nhưng hoàn cảnh trớ trêu. Nhưng bà Hồ Xuân Hương là ai? Cuộc đời của bà như thế nào thì không phải ai cũng biết, ngay cả với những người đã nằm lòng bàn tay hàng trăm bài thơ của bà.
Theo như sử sách chép lại, có sự thống nhất từ nhiều tài liệu cũ thì nữ thi sĩ quê gốc ở Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu, Nghệ An. Sau này, bà cùng gia đình di chuyển ra kinh thành Thăng Long, một vùng đất ở cạnh Hồ Tây sinh sống. Có lẽ, đó là giả thuyết khiến nhiều người tin rằng, nơi bà sống cũng là nơi bà mất. Và, cho đến nay, vẫn có rất nhiều lời đồn thổi về mộ phần của bà nằm lại dưới đáy Hồ Tây.
Nhiều lời đồn đoán cho rằng, mộ của nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương còn nằm lại dưới Hồ Tây (ảnh minh họa)
Nhiều người dòng tộc họ Hồ ở Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu ngày nay vẫn lắc đầu thắc mắc chung một câu hỏi, rằng không biết mộ phần thật của bà chúa